Sau khi được học STEM, mỗi giờ thực hành luôn tràn đầy niềm vui với các em học sinh Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tri Lễ. (Ảnh HOÀNG HẬU)
Sau khi được học STEM, mỗi giờ thực hành luôn tràn đầy niềm vui với các em học sinh Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tri Lễ. (Ảnh HOÀNG HẬU)

Đầu tiên và trên hết vẫn là đổi mới giáo dục

“Em muốn trở thành một kỹ sư thiết kế phần mềm máy tính!” - Linh Chí Kiên, người dân tộc Nùng, đang học lớp 8B Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tri Lễ, tỉnh Lạng Sơn, nói với ánh mắt tự tin, kiên định.

Câu chuyện của Kiên là minh chứng cho một lựa chọn đúng đắn - đưa mô hình giáo dục tích hợp STEM vào giảng dạy ở một địa bàn hết sức khó khăn.

Thầy, trò cùng vượt khó

Cô Chu Thị Kiều, Chủ nhiệm câu lạc bộ STEM, nhớ lại những ngày đầu nhà trường khởi xướng cách dạy và học mới: “Chúng tôi muốn chuyển những lý thuyết khô khan trong các bài học thành hoạt động thực tiễn, sống động, gần gũi với các em. Học sinh không chỉ học thuộc lòng mà phải biết làm, biết thử nghiệm”.

Thế nhưng, hành trình khởi đầu đương nhiên không hề dễ dàng. Nhà trường thiếu thiết bị. Thầy, cô giáo thiếu kiến thức liên ngành, liên môn học. Học sinh rụt rè, sợ hỏng, sợ sai. Giáo viên phải tự học thêm qua tài liệu tìm trên internet, tự mày mò thiết kế bài học. Nhưng vượt lên tất cả là quyết tâm: không để học trò Tri Lễ “bị bỏ lại phía sau” trong kỷ nguyên công nghệ.

Giữa bao khó khăn ấy, thầy và trò Trường Tri Lễ có sự đồng hành xuyên suốt của chính quyền địa phương. Ủy ban nhân dân xã không chỉ ban hành các văn bản chỉ đạo nhà trường đưa nội dung dạy học STEM vào kế hoạch, trở thành nhiệm vụ trọng tâm trong năm học để triển khai, mà còn thường xuyên tổ chức các Ngày hội STEM cấp xã, mời các xã khác trên địa bàn tỉnh cùng tham gia.

Cùng đó, xã mở rộng phối hợp với Liên minh STEM Việt Nam, nhóm học sinh Trường THPT chuyên Hà Nội Amsterdam, Công ty TNHH Sáng tạo giáo dục để thực hiện tập huấn cho giáo viên và học sinh.

Là xã nghèo với ngân sách còn hạn chế, song chính quyền xã đã chủ động phối hợp với các dự án giáo dục, huy động nguồn lực xã hội hóa để đầu tư mua thiết bị máy tính, hỗ trợ đường truyền internet, hỗ trợ nuôi dưỡng bán trú, hỗ trợ sinh kế cho hộ nghèo. Hằng năm, xã luôn lưu ý bố trí kinh phí để đầu tư, hỗ trợ cho học sinh của trường tham gia các giải thi đấu VEX IQ khu vực và quốc gia.

Nhờ đó, nhà trường có thể nhanh chóng triển khai kế hoạch: Mỗi giáo viên bộ môn phải xây dựng ít nhất hai chủ đề STEM trong một học kỳ, lồng ghép vào các môn học Toán, Khoa học tự nhiên, Công nghệ, Tin học. Giáo viên các bộ môn Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục cũng tìm hiểu để học cách lập trình, điều khiển robot, thành lập câu lạc bộ STEM. Nhà trường đã ứng dụng STEM theo chiều sâu, như một phương pháp giáo dục làm thay đổi tư duy dạy và học.

Cô Hoàng Thị Hậu, Phó hiệu trưởng nhà trường mời tôi tới phòng truyền thống, nơi lưu giữ niềm tự hào của cô và trò trường Tri Lễ. Cô nhỏ nhẹ giới thiệu: “Trường chưa có phòng STEM riêng, sinh hoạt câu lạc bộ STEM chủ yếu diễn ra tại các phòng học bộ môn. Phòng này để dùng cho các hoạt động quy mô lớn hơn, cũng là nơi lưu giữ các sản phẩm do học sinh tự làm và giải thưởng STEM mà nhà trường đạt được trong những năm gần đây!”.

Trước mắt tôi là vô cùng đa dạng các mô hình sản phẩm, từ cầu bập bênh, đèn lồng, máy lọc nước đơn giản, máy gieo hạt nảy mầm, bẫy ruồi, cánh tay robot, robot đá bóng... Điểm đặc biệt, phần lớn vật liệu để làm mô hình đều được các em học sinh tận dụng từ đời sống thường nhật, như tre, nứa, nhựa mít. Sự mộc mạc ấy vừa thể hiện rõ nét sự sáng tạo của các em, vừa đem lại vẻ gần gũi, cảm giác dễ sử dụng cho các sản phẩm.

Với những thành công bước đầu tại Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tri Lễ, cán bộ xã tự tin hơn trong việc mở rộng mô hình giáo dục STEM trên địa bàn. Toàn xã có 10 trường từ cấp mầm non đến THCS. 100% các trường thực hiện dạy học hai buổi/ngày và tổ chức ăn bán trú cho học sinh, mô hình giáo dục STEM được triển khai, thực hiện ở tất cả các cấp học từ mầm non, tiểu học cho đến THCS.

z7068138827048-7457f8e044afd301df579a3b6332a2d9.jpg
Góc "tự hào" của thầy và trò Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tri Lễ. (Ảnh Hoàng Hậu)

Lan tỏa mô hình chắp cánh ước mơ

Tháng 5/2022, lần đầu, cô và trò Trường Phổ thông Dân tộc bán trú Tri Lễ mang sản phẩm đi thi Ngày hội STEM cấp huyện. Dù chỉ đạt giải khuyến khích, nhưng đó là cột mốc quan trọng cho nhiều dự án sau này. Hai năm sau, gian hàng của các em giành giải nhì về trưng bày và giải Chuyên đề thực hành STEM tốt nhất.

Cô Hậu nhấn mạnh: “Ở vùng khó như Tri Lễ, STEM mở ra cơ hội giúp các em học sinh giảm khoảng cách nhận thức với học sinh vùng thuận lợi. Các em được rèn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ số, phát triển khả năng giải quyết vấn đề, tự tin, mạnh dạn trong việc tham gia các kỳ thi. Đặc biệt, các em được khẳng định mình, khi tiếp cận công nghệ cao, không thua các trường bạn”.

Em Linh Chí Kiên, học sinh lớp 8B, dân tộc Nùng, từ chỗ chỉ biết đến robot qua màn hình ti-vi, đã mạnh dạn tham gia thi lập trình robot ảo cấp quốc gia và giành giải nhất. “Giờ em tin rằng mình có thể học đại học, thậm chí săn học bổng đi nước ngoài để trở thành kỹ sư lập trình”, Kiên chia sẻ với ánh mắt đầy tự tin.

Khi đã có ước mơ, Kiên lên kế hoạch cụ thể, từ việc phải học chăm chỉ ra sao, cho đến tìm kiếm, mở rộng các kênh học lập trình, tận dụng thời gian rảnh để luyện coding ngay trên điện thoại,… Ban đầu, vì không hiểu, bố mẹ em còn cho rằng Kiên chỉ suốt ngày ngồi… nghịch điện thoại. Đến khi nghe thầy, cô thông báo Kiên giành được giải thưởng, bố mẹ em mới yên tâm, dù vẫn không biết phải khoe thế nào về thành tích của con với họ hàng, chòm xóm.

Câu chuyện của Tri Lễ không phải cá biệt, trên cả nước, nhiều mô hình chắp cánh ước mơ cho các em đang được triển khai hiệu quả. Như tại tỉnh Lào Cai, “Câu lạc bộ Thủ lĩnh của sự thay đổi” giúp học sinh dân tộc thiểu số, đặc biệt là học sinh nữ, mạnh dạn lên tiếng, hiểu quyền trẻ em, kỹ năng sống, tổ chức các buổi đối thoại giữa nhà trường-học sinh-phụ huynh. Sau hơn một năm, câu lạc bộ đã tổ chức 27 buổi sinh hoạt, sáu buổi truyền thông và thu hút hơn 2.500 lượt các em tham gia. Nhiều trường khác trên địa bàn tỉnh còn tổ chức tiết học trải nghiệm nghề dệt thổ cẩm, đan lát, mời nghệ nhân dân tộc truyền dạy, trực tiếp đưa học sinh vào bản để học nghề truyền thống.

Hay vào tới miền trung, nhiều trường vùng cao ở tỉnh Quảng Trị áp dụng mô hình “vườn rau trải nghiệm và nuôi dê”. Học sinh sau khi tiếp nhận các kiến thức phổ thông sẽ chia nhóm để cùng thực hành. Đặc biệt, nhà trường còn hỗ trợ dê cho các gia đình thuộc diện hộ nghèo, từ đó các học sinh có thể áp dụng những gì đã học vào chăn nuôi dê giúp đỡ gia đình.

Những mô hình thực tế nói trên đã và đang giúp trẻ tự tin hơn để theo đuổi những ước mơ.

Có thể nói, gia đình-nhà trường-chính quyền địa phương chính là bộ ba trụ cột giúp cho trẻ em, đặc biệt các em ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn có thể vươn khỏi lũy tre làng mở cánh cửa tri thức, tự tin bước ra với thế giới rộng lớn.

KHỞI NGUỒN CỦA CẢI CÁCH

Kể cả khi chúng ta có trường lớp khang trang, có trang thiết bị công nghệ hiện đại, nhưng nếu lớp học chỉ xoay quanh “phải nhớ, phải phân tích, phải trả bài” thì mọi hoạt động học tập ở trường sẽ chỉ hướng đến “đậu” các kỳ thi; ước mơ sẽ bị bóp nghẹt với những bình luận theo kiểu: “làm ca sĩ ư, nghiên cứu thiên văn ư, không thực tế”! Và vì thế, thầy trò vẫn luôn chịu đựng áp lực từ điểm số, thành tích thi đua, khen thưởng! Đã đến lúc, chúng ta cần kiến thiết trường học hạnh phúc, nơi mỗi ngày đến trường các em đều có được niềm vui. Học tập là hành trình khám phá, không phải đường đua. Trường học là nơi học sinh làm chủ kiến thức và nuôi dưỡng ước mơ cũng như khát vọng học tập suốt đời.

Cải cách giáo dục không chỉ là thay sách, đổi chương trình mà trước hết là đổi “bầu không khí” trong lớp học, để có được sự yêu thương, tin tưởng và khát vọng giúp các em tự tin bước vào đời.

PGS, TS Trần Thành Nam

Phó Hiệu trưởng Trường đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội

Xem thêm