Nhiều nông trường được chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Nhiều nông trường được chuyển đổi thành công ty cổ phần.

Ký ức nông trường quốc doanh Tây Nguyên (kỳ 2)

Kỳ 2: “Công nhân nghèo” thành “nông dân giàu”

(Tiếp theo và hết)

Đất nước trải qua chiến tranh, ở một giai đoạn lịch sử, nông trường quốc doanh đã thể hiện sự tối ưu của một mô hình kinh tế nhà nước. Dù thị trường nội tiêu là chính, một số ít sản phẩm được xuất khẩu qua Liên Xô và Đông Âu, nhưng nông trường quốc doanh đã làm được những điều mà các mô hình kinh tế khác thời đó không làm được.

1. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, từ sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết, nông trường quốc doanh ra đời đã huy động được lực lượng lao động to lớn, với kỳ vọng làm “đầu tàu” của nền kinh tế nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; là “tấm gương”, là “trường học” của kinh tế hợp tác xã; là lực lượng chính đưa nông dân vào làm ăn tập thể và hướng dần theo dây chuyền sản xuất công nghiệp.

Suốt từ năm 1955 cho đến thời kỳ sau Đổi mới, việc phát triển nông trường quốc doanh tuy còn nhiều hạn chế, nhất là tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả nhưng đã có những đóng góp rất lớn về mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn các vùng nông thôn, miền núi. Hệ thống nông trường quốc doanh đã góp phần tạo nên những vùng kinh tế tổng hợp, ổn định tình hình chính trị; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Nơi các nông trường hoạt động cũng đã trở thành những trung tâm văn hóa-xã hội mang tính ưu việt; góp phần hồi sinh những vùng đất chết sau chiến tranh.

Nhưng càng về sau, mô hình này đã bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết. Đã là cơ chế tập trung, kế hoạch hóa thì cũng dễ dẫn đến cảm tính, duy ý chí, thiếu khoa học và không phù hợp với quy luật phát triển. Hồi đó, mỗi năm, nông trường được giao khoán bằng con số định mức các loại, cả đầu vào lẫn đầu ra. Người công nhân chỉ biết sản xuất, sản phẩm đi đâu về đâu không phải việc của họ. Quy trình phân bổ vật tư, hàng hóa cũng vậy; cách phân phối cứng nhắc, nhiều khi loại cần thì không có mà loại có thì không cần.

Ngay sự bố trí nhân lực điều hành sản xuất cũng bộc lộ khiếm khuyết. Mỗi nông trường có các đội chuyên môn, như đội cơ khí, đội sản xuất, đội chế biến, đội công trình… Nhưng đôi khi đội này làm không hết việc, đội khác chẳng có việc làm. Cơ quan cấp trên giao kế hoạch mà nhiều khi chưa bao giờ đến tận nơi xem nông trường đang làm gì ở đó. Một cơ chế rõ ràng, rành mạch về kế hoạch, con số trên giấy tờ nhưng mù mờ về cách quản lý, vận hành. Hồi đầu những năm 1990, tôi đã có nhiều ngày theo chân lãnh đạo nhiều nông trường hỏi chuyện và chứng kiến công việc điều hành, sản xuất, kinh doanh của họ. Thời điểm tôi được trải nghiệm thì mô hình nông trường quốc doanh ở Tây Nguyên đã bắt đầu lâm vào khủng hoảng. Từ thực tiễn nghẽn mạch động lực, mô hình này bắt đầu rục rịch thay đổi lối nghĩ, cách làm trong công cuộc đổi mới tư duy, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế toàn quốc…

162.jpg
Người công nhân biến thành nông dân ngay trên vườn cây của nông trường xưa.

2. Kỹ sư nông nghiệp Nguyễn Văn Lục, nguyên chuyên viên UBND tỉnh Lâm Đồng là một người rất am tường những thăng trầm của hệ thống nông trường quốc doanh ở khu vực Tây Nguyên. Ông Lục phân tích, sau 1981, các nông trường chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa sang khoán dịch vụ, nghĩa là nông trường giao khoán sản phẩm cho công nhân, chỉ làm dịch vụ đầu vào như cày đất, phun thuốc, vận chuyển và phân phối hàng hóa thiết yếu. Tuy nhiên, nhiều khuyết điểm bộc lộ, bộ máy quản lý tỏ ra thiếu năng động, nguồn tích lũy kém, chi tiền lương nhiều. Lúc này thì thị trường bên ngoài đã rất linh hoạt về giá cả và phong cách phục vụ nên họ cạnh tranh tốt hơn. Nông trường teo dần. Công nhân chỉ còn nộp một phần “tô” cho nông trường, còn lại họ được hưởng. Giai đoạn này chưa tạo nên sự đột phá bởi người công nhân chưa thật sự gắn bó với mảnh đất nhận khoán, bản chất thì đó vẫn là “đất nông trường”. Nhưng đây lại chính là thời điểm mà công nhân được hưởng hoa lợi nhiều, có điều kiện tích lũy, để rồi họ sẽ bung ra đầu tư sản xuất-kinh doanh khi cơ hội đến.

Cơ hội thật sự đến khi chính sách hóa giá vườn cây cho công nhân được áp dụng. Đây chính là giai đoạn chuyển hóa từ những “công nhân nghèo” sang “nông dân giàu” chỉ sau đó ít năm trên khắp vùng Tây Nguyên. Thời điểm này, có nhiều cách chuyển đổi, nhưng hầu hết là giải thể nông trường, bán vườn cây cho công nhân; một số nông trường được chuyển đổi thành công ty cổ phần. Tiền thu từ hóa giá vườn cây ở các nông trường giải thể được nộp vào ngân sách. Đất đai từng bước được giao cho người lao động và họ được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật trên mảnh đất “của mình”. Đây là lúc mà người công nhân biến thành nông dân ngay chính trên mảnh đất nông trường xưa. Động lực mới sinh thành, họ đầu tư toàn lực vào vườn cây sẵn có và có thể chuyển dịch cơ cấu cây trồng mang lại nguồn thu nhập cao hơn.

Tiếp nối câu chuyện, ông Phạm Ngọc Thiệp kể: Năm 1992, Nông trường Phú Sơn giải thể trên tinh thần áp dụng chính sách chia đất cho công nhân theo tỷ lệ đất đai cân đối với lao động để ai cũng có đất, ai cũng có thể trụ lại. Từ đội sản xuất trở thành thôn, xóm. Từ công nhân thành người dân địa phương. Một không khí lao động mới mẻ đã rộn ràng trên những khu vườn thời “làm chủ tập thể”. Đất đai tốt tươi, người lao động chuyên cần khi làm chủ trên mảnh đất của mình, những gia đình có vốn, có lao động đã giàu lên nhanh chóng. Mùa cà-phê 1994-1995 đạt mức giá kỷ lục, giữa vùng đất Phú Sơn trên nền nông trường xưa những biệt thự hiện đại đã mọc lên san sát, ô-tô, xe máy rộn rã. Ở Phú Sơn, phong độ tuyệt vời ấy vẫn được giữ đến ngày hôm nay.

“Sinh ra và lớn lên trong vòng tay cha mẹ nơi hai nông trường, Bãi Phủ và Phú Sơn, cái danh từ “nông trường” gắn bó với chị em tôi hết sức thân thương. Với gia đình tôi, nông trường là một miền ký ức đậm sâu. Đó là cả một gia đình lớn…”, chị Hồ Nga nói.

Giữa mùa hè năm nay, tôi có mặt trong lễ tang của ông Hồ Nhã, nguyên Giám đốc Nông trường Phú Sơn xưa. Trong sân ngôi nhà vốn là đất giữa nông trường ngày nào, tôi đã gặp những cán bộ, công nhân cũ của ông và được nghe họ kể những câu chuyện về người lãnh đạo mẫu mực, mẫn cán, hết lòng, hết sức dựng xây nông trường. Những người con của ông Hồ Nhã cũng nói về cha của họ bằng một lòng kính trọng. Dòng tâm sự của mọi người đều nhắc về kỷ niệm một thời gian khó. Chị Hồ Thị Nga (nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Lâm Đồng), con gái cả của ông Nhã, kể rằng: Năm 1977, cha của chị là cán bộ khung từ Nông trường Bãi Phủ (Nghệ An) được cử vào cùng mọi người xây dựng Nông trường Phú Sơn. Cha chị vào trước rồi trở về đưa vợ con vào. Những tháng ngày buổi sơ khai ấy, mọi người cùng chia nhau cái khổ. Những dãy nhà tập thể tre, nứa. Những bữa cơm độn ngô, sắn với thức ăn chủ yếu là cá chuồn khô, măng tre. Những con đường đi học vượt rừng, lội suối. Căn bệnh sốt rét hoàng hành nhiều người và bọn phản động Fulro về tận nông trường bắn giết.

Cũng như gia đình, con cháu của ông Hồ Nhã, ở Nông trường Đức Lập phía tây Lâm Đồng, người anh họ của tôi đã mất. Nhưng trên vùng đất nông trường xưa, những ngôi nhà khang trang của con cháu anh đã mọc lên giữa những vườn cà-phê trĩu quả. Bắt đầu từ anh tôi, nơi ấy nay đã đến đời con cháu thứ ba. Tụi nhỏ được sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ nền đất bazan và mầu xanh cây trái nông trường. Những câu chuyện đẹp mà mỗi người thường kể với nhau hôm nay đều nhắc nhở về ngày xưa. Cái thời anh tôi còn là một người trai trẻ, vượt đường xa tới Tây Nguyên theo tiếng gọi hấp dẫn của nông trường…

3. Khi tôi trở lại Nông trường Phú Sơn xưa, chỉ còn là bát ngát cà-phê và những ngôi biệt thự sang trọng soi mình bên dòng Đạ Dâng. Nông trường bộ ngày ấy giờ là Trường THCS Võ Thị Sáu khang trang, đẹp đẽ. Không chỉ Phú Sơn mà đến bây giờ khi bước chân quay lại, nhiều nông trường từng nổi tiếng nay không còn bóng dáng. Nhưng đâu đó, tôi đọc thấy trong câu chuyện của những người nông dân từng là công nhân một nỗi nhớ với những ngày tháng khoác mầu áo xanh. Họ đã từng ở chung tổ chức, cùng bên nhau lao động và sinh hoạt, cùng chia sẻ những vui buồn cuộc sống. Và giờ đây, trên hành trình đâu đó dọc ngang Tây Nguyên, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy những cổng chào thôn, xóm ghi danh là “xóm Nông Trường” hay tên tổ, đội ngày xưa như “Quyết Thắng”, “Quyết Tiến”, “Thắng Lợi”. Nông trường quốc doanh dần dần không còn nhưng những câu chuyện ký ức nông trường vẫn luôn hiện hữu qua lời kể của những người cao tuổi mỗi khi hàn huyên với lứa con, lứa cháu…

Ký ức nông trường quốc doanh Tây Nguyên (kỳ 1)

Xem thêm