Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) tham quan mô hình trồng rừng gỗ lớn trong dự án SFM của Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn (tỉnh Gia Lai). Ảnh: GIZ
Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) tham quan mô hình trồng rừng gỗ lớn trong dự án SFM của Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn (tỉnh Gia Lai). Ảnh: GIZ

Giữ rừng bền vững mới có kinh tế xanh

Trước yêu cầu khắt khe về nguồn gốc gỗ hợp pháp từ thị trường quốc tế, Việt Nam đang từng bước chuyển mình với chiến lược nhân rộng mô hình quản lý rừng bền vững (QLRBV).

Đây được coi là chìa khóa để nâng cao giá trị kinh tế rừng, cải thiện sinh kế cho cộng đồng và khẳng định vị thế quốc gia xuất khẩu gỗ uy tín trong khu vực.

Chuyển đổi mô hình hợp lý

Việt Nam hiện có hơn 14,7 triệu ha rừng, trong đó rừng sản xuất chiếm khoảng 8 triệu ha. Tuy nhiên, phần lớn diện tích rừng trồng vẫn theo mô hình chu kỳ ngắn, chủ yếu phục vụ sản xuất dăm gỗ, chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng gỗ lớn, tính đa dạng sinh học và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, tỷ lệ rừng được cấp chứng chỉ quản lý bền vững (FSC, PEFC, VFCS) mới đạt khoảng 400 nghìn ha, tương đương 5% tổng diện tích rừng sản xuất. Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu gỗ lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản ngày càng siết chặt quy định về nguồn gốc gỗ hợp pháp, yêu cầu chứng chỉ rừng là điều kiện bắt buộc.

Để đáp ứng yêu cầu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) đã phối hợp với Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) triển khai Dự án “Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam” (SFM) từ năm 2022 đến 2025 tại ba tỉnh: Quảng Trị, Bình Định (nay là Gia Lai) và Phú Yên (nay là Đắk Lắk). Dự án hướng tới chuyển đổi mô hình trồng rừng từ chu kỳ ngắn sang chu kỳ dài, tập trung sản xuất gỗ xẻ chất lượng cao, đồng thời thúc đẩy cấp chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn quốc tế.

Tại tỉnh Gia Lai, các doanh nghiệp lâm nghiệp như Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn, Công ty Lâm nghiệp Sông Kôn đã bắt đầu chuyển đổi sang mô hình rừng trồng chu kỳ dài, trồng cây gỗ lớn như keo lai, sao đen, giáng hương… phục vụ chế biến gỗ nội thất và xuất khẩu. Việc áp dụng quy trình QLRBV đã giúp tăng giá trị sản phẩm, giảm thiểu rủi ro môi trường, nâng cao năng lực quản lý và truy xuất nguồn gốc. Ngoài ra, Gia Lai cũng là địa phương đầu tiên triển khai mô hình liên kết giữa doanh nghiệp lâm nghiệp và nhóm hộ dân trồng rừng để cùng đạt chứng chỉ FSC nhóm. Điều này giúp giảm chi phí chứng nhận, tăng khả năng tiếp cận thị trường và nâng cao năng lực quản lý rừng của cộng đồng.

Ông Nguyễn Văn Hoan, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai cho biết, dự án SFM đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực QLRBV, chuyển đổi rừng trồng sang chu kỳ dài để nâng cao chất lượng gỗ, cải thiện hấp thụ carbon, bảo vệ môi trường và lợi ích kinh tế cho chủ rừng. Qua đó góp phần cải thiện sinh kế cho cộng đồng dân cư địa phương, đồng thời thúc đẩy vai trò của phụ nữ và nông dân trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Đối với tỉnh Gia Lai, dự án đã để lại những kết quả thiết thực, đặc biệt là nâng cao giá trị kinh tế rừng gắn với bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu.

Theo các chuyên gia, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để chuyển đổi ngành lâm nghiệp từ “khai thác tài nguyên” sang “quản trị tài nguyên”, từ “sản xuất thô” sang “giá trị gia tăng”.

Xây dựng nền lâm nghiệp hiện đại

Theo thỏa thuận giữa hai Chính phủ Việt Nam và Cộng hòa liên bang Đức năm 2023, ngành lâm nghiệp là một trong những lĩnh vực ưu tiên của hợp tác song phương. Trong đó bao gồm QLRBV, bảo vệ rừng cũng như chuỗi giá trị gỗ hợp pháp và bền vững. Do vậy, QLRBV vừa là yêu cầu thị trường, đồng thời cũng là trách nhiệm của quốc gia trong bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế xanh.

Theo ông Nguyễn Danh Đàn, Phó Giám đốc Dự án SFM Trung ương, mô hình rừng trồng chu kỳ dài giúp cải thiện chất lượng đất, tăng khả năng giữ nước, giảm xói mòn và tạo sinh kế ổn định cho người dân sống phụ thuộc vào rừng. “Chúng tôi không chỉ hướng tới sản xuất gỗ, mà còn xây dựng hệ sinh thái rừng bền vững, gắn kết giữa chủ rừng, doanh nghiệp và cộng đồng”, ông Đàn nhấn mạnh.

Bà Michaela Maria Baur, Giám đốc quốc gia của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tại Việt Nam cho biết, hiện nay các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học, mất rừng và thương mại gỗ bất hợp pháp không thể được giải quyết bởi một quốc gia. Thay vào đó, cần có sự hợp tác và nỗ lực chung để bảo vệ những khu rừng quý giá, nền tảng của sinh kế và hệ thống kinh tế cho các thế hệ hiện tại và tương lai. Đây là niềm tin mà cả Đức và Việt Nam đều chia sẻ.

Theo Quy hoạch phát triển lâm nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050, Việt Nam hướng tới một ngành lâm nghiệp có hệ thống sản xuất giống cây lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, việc xây dựng lâm nghiệp hiện đại cũng như nhân rộng QLRBV đang đối mặt với nhiều thách thức như thiếu cơ chế tài chính ưu đãi cho chủ rừng chuyển đổi mô hình; thiếu hệ thống giám sát rừng hiện đại, dữ liệu số hóa chưa đồng bộ… Để tháo gỡ, rất cần có sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, đặc biệt là chính sách tín dụng xanh, đào tạo nghề lâm nghiệp và truyền thông thay đổi nhận thức.

Xem thêm