TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Năng lượng nguyên tử Việt Nam
Nhân lực là "chìa khóa" phát triển điện hạt nhân
Điện hạt nhân là nguồn năng lượng cần thiết cho Việt Nam trong tương lai, giúp thúc đẩy phát triển khoa học kỹ thuật, công nghiệp. Đặc biệt, nguồn năng lượng này không phát thải CO2, góp phần tăng trưởng phát triển xanh, bền vững.
Tôi cho rằng nhân lực là "chìa khóa" để phát triển điện hạt nhân thành công, hiệu quả và bền vững. Vấn đề an toàn điện hạt nhân cũng chủ yếu liên quan đến yếu tố con người. Trong đó, vấn đề nhân lực hạt nhân gồm ba mảng chính.
Thứ nhất, nhân lực làm việc tại các nhà máy là đội ngũ được đào tạo đại học và đào tạo các khóa chuyên ngành sau đại học, huấn luyện. Thường phải mất khoảng 10 năm mới có một đội ngũ nhân lực vận hành lò. Nhiệm vụ này chúng ta sẽ giải quyết cùng các đối tác, tận dụng tối đa năng lực và điều kiện đào tạo trong nước đang có hiện nay.
Thứ hai, nguồn nhân lực nghiên cứu triển khai gồm các chuyên gia hàng đầu hiểu biết về công nghệ và an toàn hạt nhân. Đây là đội ngũ cần được triển khai lâu dài, đi theo chương trình điện hạt nhân, tuy nhiên chưa cấp bách như nhóm nhân lực phía trên.
Thứ ba, nhân lực của cơ quan pháp quy về hạt nhân. Ở các nước phát triển, đội ngũ này thường được lựa chọn từ các nhà máy, chủ đầu tư dự án, hay nhân lực trong quá trình triển khai nghiên cứu, ứng dụng, những cán bộ đã có nhiều kiến thức, kinh nghiệm triển khai thực tế, nắm chắc luật pháp để có thể theo dõi, giám sát thực hiện an toàn.
Để có được các nguồn nhân lực này, tôi cho rằng, một chương trình chung tổng thể quốc gia, quy định rõ ràng cụ thể là rất quan trọng. Việc đào tạo nguồn nhân lực phải kết hợp cả đào tạo trong nước và nước ngoài. Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm đào tạo nhân lực từ các nước đang phát triển mạnh mẽ điện hạt nhân, các nước vừa mới xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Bên cạnh đó, Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt hạ tầng pháp quy hạt nhân… Những thách thức khác của điện hạt nhân như vốn đầu tư lớn, hay chất thải phóng xạ, chúng ta sẽ tìm lời giải cùng với các đối tác và theo kinh nghiệm của các nước đã có điện hạt nhân ■
PGS, TS Trần Đình Phong, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Thách thức trong triển khai công nghệ hydro ở Việt Nam
Quá trình phát triển công nghệ hydro ở Việt Nam gặp phải năm thách thức chính: Cộng đồng nghiên cứu mỏng và thiếu liên kết nội địa; Câu chuyện chảy máu chất xám; Cơ sở hạ tầng nghiên cứu còn yếu; Thiếu chương trình nghiên cứu quốc gia quy mô lớn; Các doanh nghiệp trong nước còn đứng ngoài cuộc.
Tự chủ công nghệ năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng hydro không chỉ là bài toán kỹ thuật, mà còn là câu chuyện tầm nhìn, con người, hệ sinh thái và sự đồng hành. Nếu chúng ta hành động từ hôm nay, dù chỉ với những bước nhỏ, tương lai hydro tại Việt Nam hoàn toàn có thể là câu chuyện không còn quá xa vời. Nếu không đầu tư từ bây giờ, đến khi công nghệ hydro chín muồi, Việt Nam sẽ lại rơi vào thế bị động và chỉ còn lựa chọn duy nhất là mua công nghệ từ nước ngoài.
Hiện tại, nhóm chúng tôi tại USTH chỉ có bảy nhà nghiên cứu, hai nghiên cứu sau tiến sĩ và bốn nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, điều chúng tôi tự hào là trong 10 năm qua đã giới thiệu hơn 40 bạn trẻ tài năng đi đào tạo tiến sĩ tại nước ngoài, trong đó phần lớn được đào tạo trong lĩnh vực năng lượng hydro, khử CO2. Đây là đội ngũ có thể huy động để tham gia một chương trình nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng hydro tham vọng trong nước.
Chúng tôi cũng đang triển khai một dự án hợp tác quốc tế phát triển năng lượng hydro xanh, được Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) tài trợ giai đoạn 2025-2029. Mục tiêu là phát triển nghiên cứu, đào tạo nhân lực, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đến năm 2029 có thể thành lập một phòng thí nghiệm hỗn hợp quốc tế tại Việt Nam chuyên sâu về hydro.
TS Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
Chuyển dịch năng lượng - nhu cầu bức thiết
Tháng 4, Thủ tướng Chính phủ đã thông qua Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, trong đó đặt mục tiêu đầy tham vọng: Tỷ lệ năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) đạt 28-36% vào năm 2030 và 74-75% vào năm 2050. Để thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo và các công nghệ năng lượng mới, chúng ta cần xem xét năm nội dung trọng tâm.
Thứ nhất, về phát triển năng lượng tái tạo: Cần tập trung khai thác có hiệu quả tiềm năng về năng lượng tái tạo trong nước (như điện gió, điện mặt trời, và điện sinh khối); thu hút đầu tư tư nhân và quốc tế thông qua cơ chế ưu đãi, minh bạch, phù hợp với chiến lược phát triển của đất nước trong từng thời kỳ.
Thứ hai, về công nghệ năng lượng tương lai: Cần nghiên cứu ứng dụng hydro xanh, amoniac xanh, hệ thống lưu trữ năng lượng (pin, thủy điện tích năng), và công nghệ thu giữ carbon (CCS). Cùng với đó là ứng dụng năng lượng nguyên tử, phát triển điện hạt nhân.
Thứ ba, về lưới điện thông minh: Cần hiện đại hóa lưới điện, ứng dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số để vận hành hiệu quả khi tích hợp số lượng lớn các nguồn năng lượng tái tạo. Nghị quyết số 57-NQ/TW là cơ sở chính trị quan trọng để thúc đẩy phát triển nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong lĩnh vực năng lượng một cách toàn diện, trong các khâu của chuỗi cung ứng, dịch vụ.
Thứ tư, về hoàn thiện thể chế: Tiếp tục tháo gỡ "điểm nghẽn" trong cơ chế giá điện, ưu đãi đầu tư, và tài chính xanh.
Thứ năm, phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng, đào tạo nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực năng lượng, nâng cao năng lực doanh nghiệp trong nước nhằm nội địa hóa và giảm chi phí sản xuất, tiến tới làm chủ công nghệ và dần hướng tới xuất khẩu công nghệ.
TS Nguyễn Quân, Nguyên Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ, Chủ tịch Hội tự động hóa Việt Nam
Tư duy chiến lược trong hoạch định chính sách
Trong bối cảnh năng lượng mới đang phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cần một cách tiếp cận khoa học, tổng thể, và có tầm nhìn dài hạn trong việc xây dựng chính sách năng lượng. Chúng ta cần có sự kết hợp hài hòa giữa việc học hỏi kinh nghiệm quốc tế và phát huy nội lực trong nước.
Việt Nam nên chủ động tiếp cận các cơ quan quản lý nhà nước về năng lượng và các nhà khoa học hàng đầu tại các quốc gia phát triển, qua đó học hỏi những bài học thành công và nhận được sự tư vấn quý báu từ các "kiến trúc sư trưởng" của những dự án năng lượng lớn.
Khi xây dựng cơ chế chính sách, chúng ta cần phải lắng nghe ý kiến các nhà khoa học, chuyên gia và doanh nghiệp. Đây chính là mối liên kết ba nhà: nhà nước - nhà khoa học và nhà doanh nghiệp ■
Ông Trần Khánh Việt Dũng, Giám đốc HDF Energy tại Việt Nam
Cần những giải pháp đồng bộ và cụ thể
Việt Nam là quốc gia sở hữu tiềm năng to lớn về năng lượng tái tạo, từ điện gió, điện mặt trời cho tới gần đây là hydrogen. Tuy nhiên, việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo vào hệ thống điện hiện hữu đòi hỏi phải có một cơ chế dự phòng linh hoạt, đủ mạnh để xử lý tính bất định của nguồn phát. Với khả năng lưu trữ lớn và phát điện thông qua pin nhiên liệu vào thời điểm cần thiết, hydrogen không chỉ giúp cân bằng cung - cầu năng lượng mà còn góp phần ổn định toàn bộ hệ thống điện.
Đây là một lĩnh vực hoàn toàn mới không chỉ tại Việt Nam mà còn với cả thế giới. Do đó, hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ mang tính "kích hoạt ban đầu" là vô cùng cần thiết nếu chúng ta thật sự muốn tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững về sau.
Với vai trò là một nhà đầu tư đang triển khai các dự án hydrogen, tôi nhận thấy thách thức lớn nhất hiện nay chính là thiếu các chính sách đồng bộ, thiếu sự thống nhất trong hướng dẫn và hỗ trợ giữa cấp Trung ương và địa phương. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ và hiệu quả đầu tư.
Tôi ghi nhận rằng Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có chiến lược hành động, định hướng dài hạn cho phát triển năng lượng mới. Tuy nhiên, với tư cách là nhà đầu tư, tôi kỳ vọng vào những chính sách cụ thể liên quan đến đất đai, cơ chế mua bán điện, có thể triển khai trực tiếp từ Trung ương đến địa phương, phù hợp với thực tiễn triển khai các dự án...■