Nhà nước dẫn dắt, doanh nghiệp đồng hành
Trong dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030, nội dung khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển lò phản ứng hạt nhân mô-đun nhỏ (SMR) nhận được nhiều ý kiến đồng thuận.
Theo đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng), việc cho phép doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cùng tham gia nghiên cứu, phát triển SMR có thể giúp mở rộng nguồn lực, tăng khả năng tiếp cận công nghệ và tạo động lực đổi mới sáng tạo trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng sâu rộng. Bà cho rằng điện hạt nhân vốn cần nguồn lực đầu tư lớn, yêu cầu kỹ thuật cao và chuỗi cung ứng dài hạn, nên nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước sẽ khó hình thành được một hệ sinh thái công nghiệp hạt nhân hoàn chỉnh.
Đại biểu Tú Anh dẫn kinh nghiệm quốc tế cho thấy mô hình hợp tác công - tư giúp tận dụng ưu thế của mỗi khu vực: doanh nghiệp tư nhân nhanh nhạy trong tiếp cận công nghệ mới và tối ưu chi phí, trong khi doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò dẫn dắt, bảo đảm an toàn và định hướng chiến lược.
Khả năng triển khai điện hạt nhân tại Việt Nam đã được đề cập trong Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII công bố hồi tháng 2/2025, trong đó đáng chú ý là bài toán chi phí và địa điểm.
SMR là lò phản ứng dưới 300 MW, tương đương khoảng một phần ba công suất các lò truyền thống. Suất đầu tư của nhà máy điện hạt nhân được ước tính khoảng 5.500 USD/kW. Theo đánh giá, khi suất đầu tư giảm, điện hạt nhân có thể cạnh tranh hơn với điện than và các nguồn năng lượng tái tạo.
Tuy vậy, đại biểu nhấn mạnh “khuyến khích không đồng nghĩa buông lỏng”, mà cần có hành lang pháp lý chặt chẽ với cơ chế giám sát cao nhất từ phía Nhà nước. Bà cho rằng việc tham gia của tư nhân cần được đặt trong giới hạn kiểm soát về an toàn hạt nhân, công nghệ và kỹ thuật.
Đại biểu Nguyễn Thị Lan (Đoàn đại biểu Quốc hội TP Hà Nội) cũng cho rằng giai đoạn đầu phát triển SMR đòi hỏi vai trò chủ đạo của Nhà nước vì suất đầu tư tuy nhỏ hơn các nhà máy điện hạt nhân quy mô lớn nhưng vẫn đáng kể. Theo bà, mục tiêu trong giai đoạn đầu nên tập trung vào nghiên cứu, đào tạo nhân lực và kiểm chứng công nghệ, thay vì kỳ vọng ngay vào hiệu quả kinh tế. Khi Việt Nam tích lũy đủ kinh nghiệm, làm chủ công nghệ và hoàn thiện khung pháp lý, lúc đó mới có thể mở rộng quy mô để thu hút mạnh mẽ khu vực tư nhân.
Điều này đặt ra yêu cầu lập quy hoạch phát triển điện hạt nhân theo Luật Quy hoạch và Luật Năng lượng nguyên tử, nhằm xác định cụ thể các địa điểm có thể triển khai nhà máy, đặc biệt đối với các lò SMR, đồng thời đánh giá đầy đủ các yếu tố kỹ thuật, an toàn và hạ tầng liên quan.
Lâm Đồng hiện là địa phương đầu tiên đề xuất Trung ương cho phép triển khai nghiên cứu và đầu tư SMR sau năm 2030. Lợi thế của địa phương là đang sở hữu Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, đơn vị duy nhất cả nước vận hành lò phản ứng nghiên cứu, cùng nguồn nhân lực đào tạo vật lý hạt nhân tại Trường đại học Đà Lạt.
Theo đề xuất, từ nay đến năm 2030 địa phương sẽ tập trung nghiên cứu, đánh giá, chuẩn bị nguồn lực và nhân lực. Sau giai đoạn này, nếu đủ điều kiện, Lâm Đồng sẽ đề xuất Bộ Công thương và Chính phủ xem xét chủ trương đầu tư dự án SMR với quy mô 300 - 500 MW.
Doanh nghiệp muốn cụ thể hóa cơ chế đặc biệt
Quyết định 906 QĐ/TTg ban hành năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định tám địa điểm tiềm năng (tại các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận, Bình Định, Phú Yên, Hà Tĩnh và Quảng Ngãi) để xây dựng nhà máy điện hạt nhân, mỗi vị trí có thể phát triển 4 - 6 GW. Tuy nhiên, đến hiện tại, chỉ Phước Dinh và Vĩnh Hải (Ninh Thuận cũ) được công bố quy hoạch chính thức.
Với đặc tính công suất nhỏ hơn, SMR được tính toán có thể đặt tại các vị trí nhà máy nhiệt điện than cũ sau khi dừng hoạt động, nhằm tận dụng hạ tầng và nguồn nhân lực hiện có.
Tháng 2/2025, Quốc hội chính thức thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt đầu tư xây dựng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Nghị quyết gồm 5 điều, quy định một số vấn đề để thực hiện hai nhà máy Ninh Thuận 1 và 2, các dự án thành phần và một số cơ chế, chính sách đặc biệt áp dụng cho tỉnh Ninh Thuận để thực hiện.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Hội đồng thành viên Petrovietnam Lê Mạnh Hùng, bên cạnh nghị quyết này thì các cơ chế, chính sách hành lang khác cũng cần tiếp tục được hoàn thiện song song. Khoảng một tháng trước khi được Thủ tướng Chính phủ có văn bản giao chủ đầu tư thực hiện các dự án điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận, Chủ tịch Lê Mạnh Hùng đặt ra năm vấn đề mà Petrovietnam cần tập trung, chuẩn bị.
Các vấn đề này gồm: Tiếp tục nghiên cứu, đề xuất cơ chế và tối ưu chi phí vốn, phối hợp với các chuyên gia để tự đánh giá, lựa chọn công nghệ điện hạt nhân trước khi quyết định đầu tư, đánh giá, lựa chọn công nghệ gắn với tiêu chí an toàn, chuẩn bị nguồn nhân lực bài bản, tham khảo ý kiến chuyên gia và xây dựng cơ cấu nhân sự phù hợp trong các nhà máy điện hạt nhân.
Lãnh đạo Petrovietnam cũng nhấn mạnh cần sớm tìm ra các giải pháp huy động vốn, trong đó có thể xem xét các hiệp định vay như tín dụng xuất khẩu, đồng thời xây dựng cơ chế tài chính phù hợp và chuẩn bị đầy đủ nguồn lực để đáp ứng chiến lược phát triển của ngành.
Ở diễn biến liên quan, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 được yêu cầu hoàn thành trước ngày 31/12/2030, chậm nhất là 31/12/2031 theo Quy hoạch điện quốc gia mới cập nhật. Đây được xem là tín hiệu cho thấy tiến trình đang có chuyển động tích cực.
Cụ thể, Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn đánh giá hoạt động đàm phán với các đối tác để hợp tác xây dựng các nhà máy điện hạt nhân, một trong những nhiệm vụ ảnh hưởng trực tiếp đến triển khai các nhiệm vụ tiếp theo như trình duyệt điều chỉnh chủ trương, phê duyệt đầu tư và triển khai còn chậm so với yêu cầu, nhất là với điện hạt nhân Ninh Thuận 2.
Từ đây, Phó Thủ tướng yêu cầu khẩn trương tổ chức đàm phán với phía Nga, làm rõ trách nhiệm của các bên trong bảo đảm thực hiện dự án, hoàn thành trong tháng 7/2025 để tổ chức ký hiệp định về hợp tác đầu tư xây dựng Điện hạt nhân Ninh Thuận 1 do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) làm chủ đầu tư trong tháng 8/2025.
Với Điện hạt nhân Ninh Thuận 2 (Petrovietnam đảm nhiệm), Bộ Công thương nhận trọng trách chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao, Petrovietnam và các cơ quan liên quan làm việc với phía Nhật Bản về khả năng tiếp tục hợp tác xây dựng, báo cáo Thủ tướng kết quả thực hiện trong tháng 7/2025.
Như vậy, chỉ sau khoảng một năm kể từ khi Chính phủ đề xuất khởi động lại điện hạt nhân, loại hình năng lượng này đã được đưa trở lại trong Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và đang dần được cụ thể hóa trong nghị quyết của Bộ Chính trị. Cơ hội để các nhà đầu tư tư nhân tham gia lĩnh vực đặc thù này sẽ trở nên rõ ràng hơn sau khi Quốc hội xem xét và đưa ra ý kiến chính thức, dù mới giới hạn ở quy mô dưới 300 MW.
Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định rõ nhiệm vụ phát triển điện hạt nhân như một trụ cột trong bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn. Bộ Chính trị yêu cầu xây dựng chương trình phát triển điện hạt nhân với các quy mô linh hoạt, bao gồm các nhà máy lắp ráp mô-đun nhỏ... Nghị quyết cũng khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong phát triển điện hạt nhân mô-đun nhỏ, trên cơ sở bảo đảm an toàn và đáp ứng yêu cầu chiến lược về an ninh năng lượng.