Trong quý II/2025, tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng 7,96%, dẫn đầu nhóm ASEAN-6 (bao gồm Việt Nam, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines và Thái Lan). Mức tăng này thậm chí gấp gần ba lần Thái Lan. So với Indonesia đạt 5,12% và Philippines 5,5%, Việt Nam vượt trội nhờ động lực từ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Trong khi đó, Singapore và Malaysia duy trì tốc độ tăng trưởng vừa phải, thấp hơn mức tăng của Việt Nam. Không khó để khẳng định nền kinh tế trong nước đang đi đầu khu vực.
Nền kinh tế vượt trội
Với kết quả ấn tượng này, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) đã nâng dự báo tăng trưởng năm 2025 của Việt Nam lên 7%, cao hơn mức 6,5% đưa ra hồi tháng 4. Lý do chính đến từ tiêu dùng nội địa, xuất khẩu và sự phục hồi mạnh mẽ của lĩnh vực sản xuất, dịch vụ.
Theo ông Dong He, chuyên gia kinh tế trưởng của AMRO, trong khi Việt Nam duy trì đà tăng trưởng mạnh, một số quốc gia khác không được kỳ vọng nhiều. AMRO hạ dự báo mức tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Nam Á, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc xuống còn 3,8% trong năm nay và tiếp tục giảm còn 3,6% vào năm sau. Mức dự báo này thấp hơn đáng kể so với dự báo hồi tháng 4 là 4,2% năm 2025 và 4,1% năm 2026. Nguyên nhân chủ yếu đến từ những bất ổn thương mại toàn cầu, đặc biệt là chính sách tăng thuế nhập khẩu của Mỹ.
Ngoài rủi ro thuế quan và căng thẳng địa chính trị, khả năng suy thoái sâu hơn ở Mỹ và châu Âu cùng chính sách lãi suất cao kéo dài ở Mỹ cũng đang gây sức ép lớn đối với triển vọng tăng trưởng khu vực.
“Việt Nam vẫn có đủ dư địa chính sách để hỗ trợ nền kinh tế khi cần, đồng thời các cải cách về môi trường đầu tư và hạ tầng đang củng cố vị thế vững chắc cho nền kinh tế”.
Tương tự, trong báo cáo tăng trưởng kinh tế quý II, Bộ phận Nghiên cứu thị trường và kinh tế toàn cầu của Ngân hàng UOB (Singapore) nâng dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025 thêm 0,9 điểm phần trăm so với mức trước đó, lên 6,9%. UOB cho rằng, giai đoạn căng thẳng nhất trong thương mại với Mỹ đã qua và dự báo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong năm sẽ ở mức vừa phải. Theo đó, với các thị trường ngoài Mỹ, xuất khẩu dự kiến tăng 10%, tương đương mức 11,3% của năm 2024. Tổng thể xuất khẩu Việt Nam chỉ tăng 8,5%, thấp hơn đáng kể so với mức 14% của năm trước.
Dựa trên các giả định này và sau khi tính đến tác động đối với sản xuất và dòng vốn FDI, mô hình của UOB ước tính GDP năm 2025 sẽ cao hơn 0,9 điểm % so với dự báo trước đó, đạt 6,9%, so với mức 7,09% của năm 2024. Riêng hai quý cuối năm, UOB dự báo GDP quý III và quý IV sẽ tăng khoảng 6,4%. Trong điều kiện này, dòng vốn FDI thực hiện dự kiến đạt khoảng 20 tỷ USD trong năm nay.
Trái ngược với xu hướng nâng dự báo của AMRO và UOB, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng GDP từ 6,6% xuống còn 6,3% vào năm 2025 và từ 6,5% xuống 6,0% vào năm 2026. Nguyên nhân là do việc Mỹ áp dụng thuế đối ứng mới dự kiến sẽ làm giảm nhu cầu xuất khẩu trong phần còn lại của năm 2025 và sang năm 2026.
Dù vậy, về triển vọng, ADB kỳ vọng kinh tế Việt Nam vẫn sẽ vững vàng trong năm 2025 và 2026 nhờ tăng trưởng xuất - nhập khẩu cùng với sự gia tăng mạnh mẽ trong giải ngân vốn đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy nền kinh tế trong nửa đầu năm 2025.
“Bất chấp những rủi ro gia tăng từ sự bất ổn về thuế quan, các cải cách trong nước, nếu được thực hiện hiệu quả và nhanh chóng, có thể giảm thiểu những rủi ro này bằng các yếu tố trong nước được củng cố”.
Tiến gần tới mục tiêu tăng trưởng 8%
Dù Việt Nam sở hữu nền tảng tăng trưởng trung và dài hạn vững chắc, dòng FDI cải thiện và vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu được củng cố, song bà Nguyễn Thúy Hạnh, Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam vẫn có một chút lo lắng. Triển vọng thương mại trong ngắn hạn đang có dấu hiệu chững lại. Tăng trưởng GDP nửa cuối năm 2025 dự báo tăng khoảng 4,9%. Nhiều khả năng mức tăng trưởng cả năm chỉ đạt 6,1%, thấp hơn so với dự báo trước đó là 6,7%.
Để tăng cường khả năng phục hồi của nền kinh tế, bà Nguyễn Thúy Hạnh cho rằng Việt Nam cần ưu tiên một loạt giải pháp đồng bộ. Trước hết là đẩy nhanh giải ngân đầu tư công, đặc biệt trong các dự án hạ tầng trọng điểm, nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa, nâng cao năng suất và thu hút thêm dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, cần tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) để nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, thông qua việc củng cố ngành sản xuất và hỗ trợ phát triển các lĩnh vực giá trị gia tăng cao. Đa dạng hóa cơ cấu ngành và các dòng vốn FDI là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cấu trúc. Việc mở rộng các ngành ngoài sản xuất truyền thống không chỉ giúp giảm rủi ro phụ thuộc, mà còn góp phần tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững.
Về điều hành vĩ mô, bà Hạnh cho rằng Chính phủ cần duy trì chính sách tiền tệ cân bằng, vừa kiểm soát lạm phát hiệu quả, vừa bảo đảm khả năng tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân.
“Nếu tập trung vào các lĩnh vực then chốt này, Việt Nam hoàn toàn có thể vượt qua những khó khăn trước mắt và tiếp tục duy trì tăng trưởng mạnh mẽ, cân bằng không chỉ trong năm 2025 mà cả trong các năm tiếp theo”.
Còn theo TS Adeel Ahmed, giảng viên kinh tế, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam, trong các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng, đầu tư công đóng vai trò then chốt. Không chỉ tạo động lực trực tiếp cho nền kinh tế, đầu tư công còn có khả năng dẫn dắt dòng vốn tư nhân vào các lĩnh vực quan trọng như nâng cấp hạ tầng, thúc đẩy các dự án trọng điểm quốc gia, tối ưu hóa hệ thống năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng tái tạo phù hợp với từng giai đoạn phát triển.
TS Adeel Ahmed cho rằng, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP hơn 8% đầy tham vọng, Việt Nam cần theo đuổi các cải cách cơ cấu đi kèm với những can thiệp chính sách kịp thời dựa trên kinh nghiệm quốc tế. Một bước đi quan trọng là tăng thu nhập và tiết kiệm để kích thích tiêu dùng nội địa, thông qua việc sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Vì vậy, chiến lược phát triển sắp tới cần lấy đầu tư công làm nền tảng. Đồng thời, các nguồn lực bên ngoài như FDI sẽ đóng vai trò hỗ trợ bổ sung cho quá trình phát triển. Bằng cách định vị đầu tư công như một điểm tựa tăng trưởng, Việt Nam có thể bảo đảm được tính độc lập, khả năng chống chịu và thích ứng trước những gián đoạn từ quốc tế.
Việt Nam nên duy trì một môi trường tài khóa thân thiện với doanh nghiệp bằng cách rà soát lại chính sách thuế. Tránh tăng thuế nếu không thật sự cần thiết. Điều này có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Trong trường hợp cần thiết, cải cách thuế nên được thiết kế phù hợp với các mục tiêu dài hạn và được triển khai dần dần trong vòng hai đến ba năm. Chính phủ cũng cần xem xét lại các chính sách phí và miễn giảm, bao gồm việc giảm phí sử dụng đất, nhằm bù đắp chi phí gia tăng. Do đó, điều chỉnh các khuôn khổ pháp lý là rất cần thiết. Việc đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế cũng sẽ giúp cải thiện tính thanh khoản.
Việt Nam cũng cần đẩy nhanh cải cách cơ cấu, bao gồm đầu tư vào hạ tầng nhằm giảm các điểm nghẽn. Nâng cấp các ngành công nghiệp theo hướng công nghệ cao và thân thiện với môi trường là điều thiết yếu. Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng cường tác động lan tỏa của FDI và phát triển nguồn nhân lực là những yếu tố then chốt.
“Các chính sách cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao tính minh bạch và tận dụng các hiệp định thương mại để đa dạng hóa thị trường. Với quyết tâm chính trị và các hành động có trọng tâm, Việt Nam có thể tiến gần tới mục tiêu tăng trưởng 8%”.
Từ nhận định của AMRO, UOB, ADB đến Standard Chartered, các chuyên gia khẳng định nền tảng nội lực vững chắc, dòng vốn FDI ổn định, đầu tư công được đẩy mạnh cùng các cải cách đồng bộ trong nước là những trụ cột then chốt giúp Việt Nam duy trì đà tăng trưởng. Dù tồn tại các áp lực từ thương mại quốc tế, thuế quan và biến động toàn cầu, những yếu tố này vẫn tạo dư địa để nền kinh tế ứng phó linh hoạt, củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu và tiến gần tới mục tiêu GDP 8% trong trung và dài hạn.