Nhiều trường đại học đã mở rộng chương trình đào tạo ngành vật liệu tiên tiến và công nghệ Nano. Ảnh: ĐẠI HỌC PHENIKAA
Nhiều trường đại học đã mở rộng chương trình đào tạo ngành vật liệu tiên tiến và công nghệ Nano. Ảnh: ĐẠI HỌC PHENIKAA

Cơ hội để các đại học “kích hoạt” tri thức

Một trong những mục tiêu tại Nghị quyết số 71-NQ/T.Ư về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo của Bộ Chính trị là nâng tầm các đại học trở thành trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp của quốc gia và các vùng.

Điều này có ý nghĩa chiến lược đối với việc định hình lại vai trò của giáo dục đại học và sự phát triển của các trường đại học ở Việt Nam.

Nghiên cứu khoa học giữ vai trò tiên phong

Học viện Công nghệ Bưu chính -Viễn thông (PTIT) là một trong năm trường đào tạo trọng điểm về kỹ thuật công nghệ của cả nước. PGS, TS Đặng Hoài Bắc, Giám đốc Học viện nhận định: “Trong bối cảnh công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đang tái định hình nền giáo dục toàn cầu, Nghị quyết 71-NQ/T.Ư về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo không chỉ là định hướng chiến lược cho hệ thống giáo dục quốc gia, mà còn mở ra “cơ hội vàng” để các trường đại học công nghệ - kỹ thuật khẩn trương “kích hoạt tri thức”, khẳng định vai trò tiên phong trong kỷ nguyên số”.

PGS, TS Đặng Hoài Bắc cho rằng, theo Nghị quyết 71, bên cạnh nhiệm vụ đào tạo, các trường đại học sẽ từng bước chuyển trọng tâm sang nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo và kiến tạo tri thức mới. Mục tiêu này giúp định hình lại sứ mệnh cốt lõi của trường đại học. Từ đó, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông sẽ khẳng định hướng đi của mình trong đào tạo nhân lực số, nghiên cứu công nghệ lõi, chuyển giao tri thức và kiến tạo hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Ý kiến đóng góp từ các giảng viên đại học cho thấy, nghiên cứu khoa học giữ vai trò nền tảng trong việc giảng dạy các chương trình đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay. Trước hết, nghiên cứu giúp giảng viên cập nhật tri thức mới, bổ sung vào nội dung giảng dạy để sinh viên tiếp cận với các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, thay vì chỉ học lý thuyết sách vở. Thứ hai, quá trình nghiên cứu rèn luyện cho sinh viên tư duy phản biện, khả năng giải quyết vấn đề và kỹ năng làm việc nhóm, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Thứ ba, nghiên cứu gắn với giảng dạy còn tạo ra môi trường sáng tạo, nơi thầy và trò cùng tham gia đề tài, công bố khoa học, kết nối với doanh nghiệp và xã hội.

Thực tế, khoảng 80% phát minh, sáng chế trên thế giới được tạo ra tại các trường đại học, nơi làm việc của các nhà khoa học hàng đầu. Hoạt động nghiên cứu của trường đại học là động lực cho các hoạt động khởi nghiệp của sinh viên và là nền tảng để phát triển các công ty khởi nghiệp. Các trường đại học cũng là nơi cung cấp phân tích đầu vào cho các nhà hoạch định chính sách. Việc các trường đại học trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc, thông qua việc thiết kế chính sách và khuyến khích nghiên cứu theo định hướng này.

Đại học Bách khoa Hà Nội xác định mục tiêu trở thành trung tâm đào tạo và đổi mới sáng tạo hàng đầu châu Á, tập trung vào chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và kinh tế tri thức. Do đó, PGS, TS Huỳnh Quyết Thắng, Giám đốc Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, có nhiều giải pháp chính thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, góp phần hiện thực hóa mục tiêu; khuyến khích các nhóm nghiên cứu tập trung vào các dự án mang tính ứng dụng cao.

Đơn cử, tại Trường Điện - Điện tử của Đại học Bách khoa Hà Nội, với công cuộc chuyển dịch xanh ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học có tác dụng đặc biệt quan trọng. Các nghiên cứu về năng lượng tái tạo, lưu trữ năng lượng, sử dụng hiệu quả tài nguyên, hay mô hình kinh tế tuần hoàn cung cấp bằng chứng khoa học và giải pháp thực tiễn để giảm phát thải, thích ứng biến đổi khí hậu. Đồng thời, nghiên cứu giúp xây dựng chính sách dựa trên dữ liệu, từ đó hỗ trợ Nhà nước và doanh nghiệp triển khai các dự án xanh hiệu quả, khả thi. Nhờ vậy, khoa học trở thành động lực thúc đẩy quá trình hiện thực hóa cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam.

TS Hoàng Anh, Giám đốc Chương trình đào tạo kỹ thuật điện, Khoa Điện, Trường Điện - Điện tử (Đại học Bách khoa Hà Nội) cho biết, năng lực nghiên cứu khoa học là một chỉ tiêu phấn đấu cho sinh viên của chương trình đào tạo. Thông qua các hoạt động nghiên cứu, đồ án tốt nghiệp và thực tập tại doanh nghiệp, sinh viên phát triển tư duy sáng tạo, khả năng phân tích và đưa ra giải pháp đột phá, như ứng dụng AI trong kỹ thuật, tập trung vào các lĩnh vực như nguồn năng lượng xanh, thiết bị điện hiện đại và hệ thống điện thông minh để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội và thị trường lao động. Các nghiên cứu của sinh viên và giảng viên trực tiếp đóng góp vào việc giải quyết các thách thức xã hội (an ninh năng lượng, phát triển bền vững). Đồng thời, sinh viên được đào tạo để đánh giá tác động xã hội và môi trường của các giải pháp kỹ thuật, thúc đẩy trách nhiệm công dân, có khả năng đóng góp hiệu quả cho sự phát triển của đất nước.

231.jpg
Tư vấn tuyển sinh các ngành công nghệ của Đại học Bách khoa Hà Nội. Ảnh: HẢI NAM

Cần quyết tâm chính trị

PGS, TS Đặng Hoài Bắc, Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông cho biết, để hiện thực hóa Nghị quyết 71, PTIT định hướng phát triển thành tổ hợp nghiên cứu - đào tạo tiên phong: Xây dựng Đặc khu đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, triển khai sandbox (cơ chế thử nghiệm có kiểm soát), hình thành trung tâm nhân lực tri thức trẻ phục vụ đất nước và hội nhập toàn cầu. Phát triển giáo dục mở, học tập suốt đời qua nền tảng MOOC (Massive Open Online Courses - nền tảng học trực tuyến mở), góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia học tập sáng tạo tiêu biểu. Tiên phong với AI (trí tuệ nhân tạo) và EdTech (ứng dụng công nghệ trong ngành giáo dục), phát triển nền tảng DeepEdu Việt Nam, rút ngắn thời gian đào tạo, mở rộng tiếp cận tri thức đến cả vùng sâu, vùng xa. Gắn kết giáo dục với thực tiễn, hợp tác cùng trường phổ thông, triển khai AI học đường, hệ thống STEM/STEAM, nâng cao năng lực số cho giáo viên và học sinh ngay từ bậc học cơ bản. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực nghiên cứu, thương mại hóa sản phẩm khoa học - công nghệ, xây dựng hệ sinh thái tinh hoa, thu hút chuyên gia hàng đầu thế giới đến với các đại học Việt Nam. “Quan trọng hơn, Nghị quyết 71 giúp PTIT định vị rõ vai trò hạt nhân kết nối giữa đào tạo - nghiên cứu - doanh nghiệp - xã hội, từ đó không chỉ cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao mà còn đóng góp trực tiếp vào đổi mới sáng tạo, nâng tầm vị thế và lan tỏa tri thức giáo dục đại học Việt Nam ra thế giới”, PGS, TS Đặng Hoài Bắc nói.

Một nghị quyết dù đúng đắn đến đâu cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong quá trình đi vào cuộc sống nếu không có một chiến lược triển khai quyết liệt và đồng bộ. PGS, TS Nghiêm Xuân Huy, Viện trưởng Đào tạo số và Khảo thí, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, để Nghị quyết 71 thật sự đi vào cuộc sống, có ba nhóm vấn đề lớn cần được giải quyết một cách thấu đáo: Thứ nhất, phải giải quyết dứt điểm “độ vênh” về thể chế. Nhiều định hướng của Nghị quyết 71 đang có sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn với các quy định pháp luật hiện hành. Thí dụ điển hình là mô hình quản trị “Bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu” và “Không tổ chức hội đồng trường” hiện nay chưa đồng bộ với Luật Giáo dục đại học. Sự xung đột này nếu không được tháo gỡ sớm sẽ gây ra bế tắc trong quản trị. Do đó, nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Quốc hội và Chính phủ là phải rà soát, sửa đổi đồng bộ một loạt luật liên quan, từ Luật Giáo dục đại học đến Luật Ngân sách nhà nước, để tạo ra một hành lang pháp lý thông suốt, thống nhất.

Thứ hai, cần cách mạng hóa tư duy phân bổ nguồn lực. Nghị quyết yêu cầu chuyển từ cấp phát dàn trải sang đầu tư dựa trên hiệu quả. Đây là một sự thay đổi mang tính cách mạng, nhưng làm thế nào để đo lường “hiệu quả” một cách công bằng và minh bạch? Để làm được điều này, việc cấp thiết là phải xây dựng một kho dữ liệu giáo dục quốc gia lớn, tin cậy và liên thông, theo dõi các chỉ số đầu ra quan trọng như tỷ lệ việc làm, mức lương sau tốt nghiệp, số công bố khoa học, nguồn thu từ chuyển giao công nghệ… từ các cơ sở giáo dục đại học. Dựa trên dữ liệu đó, chúng ta mới có thể xây dựng các bộ chỉ số hiệu suất (KPIs) phù hợp cho từng nhóm trường để phân bổ ngân sách một cách khách quan và hiệu quả.

Thứ ba, phải tạo ra một cơ chế trao quyền tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình thực chất. Quyền tự chủ nếu chỉ nằm trên giấy sẽ vô nghĩa. Các trường phải được trao quyền tự quyết một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, đi kèm với quyền lực phải là một cơ chế trách nhiệm giải trình nghiêm ngặt. Mọi hoạt động, đặc biệt là tài chính và chất lượng đào tạo, phải được công khai, minh bạch để toàn xã hội giám sát. Tự chủ không phải là tự do vô lối, mà là tự chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng. Chỉ khi đó, tự chủ mới thật sự tạo ra sự xuất sắc.

“Tôi cho rằng, rủi ro lớn nhất của việc triển khai Nghị quyết 71 không phải là đặt mục tiêu quá tham vọng, mà nằm ở ý chí triển khai nghị quyết này. Nghị quyết 71 là bản thiết kế cho một “cú đại nhảy vọt” của giáo dục Việt Nam. Để thành công, chúng ta cần một quyết tâm chính trị cao nhất, dám thay đổi thể chế triệt để, dám đầu tư có trọng điểm và dám tin tưởng trao quyền cho các cơ sở giáo dục”, PGS, TS Nghiêm Xuân Huy khẳng định.

Xem thêm