Đài tưởng niệm tại nghĩa trang Cayenne.
Đài tưởng niệm tại nghĩa trang Cayenne.

Lao tù An Nam tại Guyane

Kỳ 5: Theo dấu những cái tên trở thành lịch sử

(Tiếp theo và hết)

Từ 1854 đến 1953, trong suốt một thế kỷ tồn tại, lao ngục Guyane đã tiếp nhận một con số lớn lao tù Đông Dương. Nhìn dưới góc độ thời gian, quá trình hình thành, duy trì và kết thúc lao ngục tại Guyane tương thích với giai đoạn hình thành, duy trì và kết thúc chế độ thuộc địa tại Đông Dương.

Tưởng nhớ những người đã mất tại vùng đất này

Với số lượng lên tới hàng nghìn người, lao tù An Nam tạo thành một cộng đồng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ lớn đến đời sống tinh thần và văn hóa của mảnh đất vùng bắc Nam Mỹ. Trong lời giới thiệu cuốn sách “Lao tù Đông Dương ở Guyane. Từ giữa những năm 1860 đến 1963”, NXB L’Harmattan, 2023 của TS sử học Olivier Delesalle, người từng đảm nhận chức vụ Chủ tịch vùng Guyane (2010-2015) và chức Chủ tịch cơ quan địa chính Guyane (2015-2021) viết:

“… theo dòng thời gian người dân Guyane thu thập và đồng hóa những kỹ năng du nhập và truyền lại từ những người An Nam này, thí dụ như kỹ năng đánh bắt tôm cá (dùng hàng rào tre hoặc lưới rộng) và văn hóa lúa nước ở những vùng trũng, trái ngược với văn hóa người bản địa Créole và người Bushinengué. Người An Nam cũng mang tới kỹ thuật đan rổ rá, đặc biệt với chất liệu thân cây cói để đan nón mũ rộng vành (thuộc loại mũ cói), quạt nan cùng nhiều vật dụng khác. Những đóng góp này góp phần tạo nên nền tảng văn hóa cộng đồng kết hợp với những kỹ năng của người Guyane cho đến ngày hôm nay[1]”.

Sau lời giới thiệu, Olivier Delesalle đã kể lại nguồn gốc khiến ông nảy sinh ý tưởng viết cuốn sách:

“Tháng 1 năm 2021, Cayenne, đại lộ Esstrée. Tôi thảnh thơi đi dạo, đắm chìm vào khung cảnh của Guyane nơi tôi vừa mới đặt chân đến. Qua hàng rào nghĩa trang, một đài tưởng niệm bất ngờ khiến tôi chú ý. Sừng sững, trắng toát, phía trên cao cắm một ngôi sao vàng lớn, nổi bật chung quanh những tấm bia khác. Dòng chữ mầu đen khắc họa trên đó. Thật bất ngờ: đó là dòng chữ viết bằng tiếng Việt! Với kinh nghiệm sống nhiều năm tại Việt Nam, tôi có thể đọc nhanh dòng chữ viết từ năm 1956: “Tưởng nhớ những người Việt Nam, người Campuchia, người Lào đã mất tại vùng đất này!”…

Một thời gian trôi qua, sự tò mò, những khám phá bất ngờ tại Cayenne, thủ đô của Guyane với con đường “Đường những người tù lưu đày Yên Bái” càng khẳng định thêm “sự hiện diện của một lao ngục cũ “lao ngục An Nam” tại Montsinéry-Tonnégrande, rồi thêm lao ngục thứ hai phía bờ hồ Petit-Saut, rồi lại thêm lao ngục thứ ba gần Apatou! Và còn thêm một con đường mang danh “Đường những người An Nam” tại Sinnamary (…)…

Theo tài liệu ghi nhận của O. Delesalle, trong khoảng thời gian hình thành và tồn tại lao ngục Guyane đã có gần 2.000 lao tù Đông Dương bị lưu đày đến Guyane với bốn giai đoạn cao trào tương ứng với bốn giai đoạn lịch sử của tình hình chính trị tại Đông Dương: Cuộc chinh phục và bình định Nam kỳ (1859-1882) tương ứng với cao trào lưu đày lần thứ nhất (1867-1882) với 195 lao tù. Cuộc chinh phục và bình định Trung kỳ và Bắc kỳ (1883-1897) tương ứng với cao trào lưu đày lần thứ hai (1885-1890) với 552 lao tù. Cuộc nổi dậy của các phong trào dân tộc Việt Nam từ năm 1905 và sự xuất hiện của các đảng chính trị tại Việt Nam từ năm 1927, tương ứng với hai cao trào lưu đày, cao trào năm 1922 với 471 lao tù, cao trào 1931 với 535 lao tù…

162.jpg
Chân dung của lao tù Trần Tử Yến do nhà báo Pierre Michelon cùng con gái nuôi Mazy, người sẽ trở thành nhân vật chính trong bộ phim tài liệu dài về các lao tù do Michelon thực hiện năm 2019.

Những tên tuổi lưu dấu trong lịch sử

Trước con tàu La Martinière, đế quốc Pháp còn một con tàu chuyên chở lao tù tới Guyane mang tên Đông Dương, hoạt động trong cao trào cách mạng những năm đầu thập niên 1920.

Ngày 23/2/1922, 477 lao tù Á châu lên tàu. Sau hai tháng rưỡi hải trình, ngày 9/6/1922, con tàu cập bến Cayenne. Chuyến hải trình trong điều kiện giam giữ hà khắc đã khiến sáu tù nhân và hai cai ngục thiệt mạng. Trong số các tù nhân có lao tù Hồ Văn Thu (không rõ năm sinh, năm mất. Số hiệu tù 1037). Hồ Văn Thu đã gặp nhà báo Albert Londres[2] năm 1923 trong chuyến điều tra phóng sự của ông và được ông miêu tả là một “người An Nam chỉ nói tiếng An Nam”. Ngoài Hồ Văn Thu còn có Lại Văn Chăm (1889-1960), mang số hiệu tù 29, người đã tham gia cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên ngày 30/8/1917. Bị Hội đồng đề hình Bắc kỳ (HĐĐHBK) tuyên án lưu đày chung thân vì tội danh “nổi loạn”, sau ba năm giam giữ tại Côn Đảo, ông bị đày đi Guyane và ở đó cho đến khi qua đời năm 1960.

Đến cao trào lưu đày năm 1931, con số lưu đày lên tới 535. Rất nhiều tên tuổi chí sĩ cách mạng bị HĐĐHBK kết án tử trước khi giảm xuống án khổ sai chung thân và bị lưu đày đến Côn Đảo rồi luân chuyển đến Guyane. Trong cuốn “Lao ngục của những người An Nam. Những người tù chính trị lưu đày cuối cùng tại Guyane”, NXB Actes Sud, 2024, tác giả - nhà sử học Christèle Dedebant đã lần theo dấu vết và điều tra về những người tù lưu đày từng chống chủ nghĩa đế quốc Pháp: Bùi Hữu Diên, Hoàng Văn Cừ (1902-1993), Lương Duyên Hồi, Lương Như Truật, Mai Duy Xứng, Nguyễn Đắc Bằng, Nguyễn Văn Liên, Trần Tử Yến (1909-2001), Vũ Văn Mô… Họ đều là những lao tù được chuyển đến từ con tàu lao ngục La Martinière trên chuyến đi ngày 17/5/1931 và cập bến cảng Cayenne ngày 30/6/1931.

Bùi Hữu Diên (1903-1935), Lương Duyên Hồi (1903-1986), là hai nhà hoạt động cách mạng, hai người đồng chí, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương lớp đầu tiên ở tỉnh Thái Bình (nay là Hưng Yên), cùng sinh ra và lớn lên tại Thái Bình. Năm 1925, hai ông tốt nghiệp Trường Thành Chung, Nam Định (nay là Ninh Bình) rồi về dạy học tại Thái Bình trước khi bị bắt. Năm 1927, họ cùng tham gia chỉ đạo chi bộ Đảng Cộng sản Thái Bình. Bị bắt với tội danh “chống phá chính quyền, giết người và trộm cắp vũ khí” để tổ chức biểu tình hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ngày 1/5/1930 tại các huyện ở Thái Bình, họ cùng bị kết án 10 năm khổ sai và đày ra Côn Đảo trước khi bị lưu đày biệt xứ đến Guyane.

Đến Guyane, họ bị chuyển đến lao ngục Saint-Laurent-du-Maroni trước khi luân chuyển đến EPS La Forestière[3] vào năm 1931, Bùi Hữu Diên mang số hiệu tù 9, Lương Duyên Hồi số 171. Tại đây, Bùi Hữu Diên bắt liên lạc với Bí thư Đảng Cộng sản Guyane để cung cấp nhiều tin tức, tố cáo điều kiện hà khắc của lao tù Guyane. Năm 1935, ông qua đời trong lao tù Guyane khi mới 32 tuổi do lao phổi. Cùng năm đó, Lương Duyên Hồi bị lưu chuyển đến Crique Anguille. Tại đây ông cùng với Nguyễn Đắc Bằng tổ chức cuộc biểu tình có quy mô chống lao ngục trong hai năm 1937-1938. Năm 1938, sau chiến thắng của Mặt trận bình dân tại Pháp, ông được hồi hương và tiếp tục hoạt động. Năm 1945 ông tham gia lãnh đạo lực lượng Việt Minh giành chính quyền ở phủ Tiên Hưng, sau đó đảm nhận Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện. Năm 1960 ông trở thành đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa khóa II.

Nguyễn Đắc Bằng (1905-1996), thành viên tích cực của Việt Nam Quốc dân đảng (VNQDĐ), ngày 10/2/1930 ông tham gia cuộc tấn công thành Hưng Hóa. Bị bắt và bị HĐĐHBK kết án tử hai lần, nhưng cả hai lần ông đều được giảm xuống án khổ sai chung thân và giam giữ tại Phú Thọ. Chính tại đây ông gặp Vũ Văn Mô. Qua đó, ông gặp thêm các đồng chí Nguyễn Văn Liên và Mai Duy Xứng. Tại lao tù Guyane, ông mang số hiệu 210. Năm 1938, sau cuộc biểu tình cùng với Lương Duyên Hồi, ông bị bắt và nhận thêm án hai năm biệt giam. Tháng 9/1941, ông trốn thoát thành công khỏi lao ngục và chuyển đến sinh sống tại phần lãnh thổ Guyane thuộc Anh và trở thành đảng viên Đảng tiến bộ nhân dân. Năm 1962, theo lời mời của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, ông viếng thăm đất nước Cu Ba. Sau này ông chuyển đến và sinh sống tại Toronto, Canada đến cuối đời.

Hai người đồng chí khác cùng bị bắt và kết án tử với Vũ Văn Mô (1902- 1949) là Nguyễn Văn Liên (1912-1936) và Mai Duy Xứng (1909-1955) đều là thành viên tích cực của VNQDĐ. Ngày 10/2/1930, trong khi ông Mô tham gia cuộc tấn công tòa thị chính Lâm Thao thì ông Liên và ông Xứng tham gia cuộc khủng bố bằng bom tại Hà Nội. Các ông bị bắt và bị HĐĐHBK kết án tử rồi sau đó được giảm về án lưu đày ra Côn Đảo trước khi lưu chuyển đến Guyane. Tại lao ngục Guyane, Vũ Văn Mô mang số hiệu tù 528, Nguyễn Văn Liên số 297 và Mai Duy Xứng số 183. Cả ba cùng hưởng án và qua đời tại Guyane.

Ngày nay những lao tù An Nam tại Guyane cuối cùng hoặc đã được hồi hương sau khi cuộc chiến thế giới II kết thúc, hoặc đã qua đời trên mảnh đất Guyane, lại một lần nữa được đông đảo quần chúng, các sử gia và rất nhiều chính trị gia quan tâm, tìm hiểu và ghi nhận bởi họ không chỉ đại diện cho một cuộc đấu tranh cách mạng của một dân tộc mà họ còn đại diện cho cả một trang lịch sử đen tối của nhân loại, trang lịch sử của những lao ngục. Vì thế dấu ấn của những lao tù An Nam không chỉ là dấu ấn của một cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nó còn là dấu ấn của cả các cuộc đấu tranh giải phóng lao tù cũng như phản kháng chế độ chủ nghĩa đế quốc trên khắp thế giới.

[1] Tr. 7

[2] Xem lại phần IV - Albert Londres, huyền thoại về hồi kết của chế độ lao ngục.

[3] Xem lại phần II - Từ Đông Dương tới Guyane.

Lao tù An Nam tại Guyane (kỳ 4)

Lao tù An Nam tại Guyane (kỳ 3)

Lao tù An Nam tại Guyane (kỳ 2)

Lao tù An Nam tại Guyane (kỳ 1)

Xem thêm