Tác giả O. Delesalle.
Tác giả O. Delesalle.

Lao tù An Nam tại Guyane (kỳ 2)

Kỳ 2: Từ Đông Dương tới Guyane

Cuộc binh biến Yên Bái, khởi nghĩa Thái Nguyên, các cuộc biểu tình chống sưu thuế tại Trung Kỳ với kết quả là hàng nghìn chí sĩ An Nam từ Bắc Kỳ tới Nam Kỳ bị bắt, xử tử và kết án lưu đày. Rất nhanh, các nhà lao tại Đông Dương rơi vào tình trạng quá tải tù nhân, trong đó Côn Đảo là thí dụ điển hình. Việc thuyên chuyển tù nhân trở thành vấn đề cấp bách.

Khởi đầu quá trình nhập cư có mục đích

Trang điện tử chuyên đề dành cho lục địa Mỹ châu của BNF (Bibliothèque Nationale de France - Thư viện Quốc gia Pháp), bài viết “Guyane như một địa danh trừng phạt và lưu đày” ghi nhận:

“Việc hình sự hóa chế độ thực dân ở Guyane phải được tái dựng lại trong khuôn khổ lịch sử rộng lớn hơn lịch sử đế chế thực dân Pháp. Hàng nghìn thần dân từ các thuộc địa bị lưu đày đến Guyane để thụ án vì các tội danh chính trị hoặc dân sự. Đầu thế kỷ XX, Guyane trở thành vùng lãnh thổ đắc địa trong quá trình đàn áp các cuộc đấu tranh chống thực dân ở Đông Dương. Từ năm 1930, các nhà hoạt động cộng sản Đông Dương bị giam giữ tại đặc khu Guyane, trong vùng lãnh thổ Inini, dưới sự quản lý trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương”.

Guyane đang trở thành một lãnh thổ thực nghiệm lao tù mới hay tất cả đều nằm trong chiến lược bóc lột người bản địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp tại Đông Dương?

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới sau cuộc đại chiến Thế giới thứ nhất đã khiến nước Pháp vào tình trạng khó khăn cả về mặt nhân lực lẫn kinh tế. Tại Đông Dương, ngoài tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, nước Pháp còn phải đối diện với các cuộc khủng hoảng chính trị trên diện rộng…

Ngày 6/6/1930, Chính phủ Pháp ra sắc lệnh tuyên bố thành lập một phân khu hành chính mới: Vùng lãnh thổ Inini.

Tại Inini có ba khu trại lao mang đặc tính của các đơn vị EPS (Etablissements pénitentiaires spéciaux - Cơ sở giam giữ đặc biệt[1]) được xây dựng và trở thành nơi nhận các lao tù chuyển đến từ An Nam: La Forestière, Saut Tigre[2] và Anguille. Cuốn “Khảo cổ học và lịch sử Sinnamary từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX, Guyane”, NXB Khoa học xã hội và nhân văn, Paris, 1997, ghi nhận:

“Lao ngục Đông Dương tại Inini có thể là nơi khởi đầu cho quá trình nhập cư có mục đích, nhưng có một điều chắc chắn rằng, người Đông Dương, với phẩm chất cần cù cùng trí thông minh, họ sẽ trở thành những trợ thủ đắc lực cho công cuộc phát triển lãnh thổ”.

Lực lượng lao tù Đông Dương bỗng nhiên trở thành nguồn “tài nguyên” lao động dành cho Guyane, bằng mọi cách họ phải tăng số lượng, càng nhiều càng tốt.

Nếu như việc nghiên cứu và khai quật lại công trình “Nhà lao An Nam” tại vịnh Anguille cho phép các sử gia ghi nhận con số 535 lao tù An Nam như con số biểu tượng cho quãng thời gian lịch sử này thì trên thực tế con số này chỉ mang tính chất đại diện cho tổng số lao tù An Nam của Montsinéry-Tonnégrande và nó chỉ bằng ¼ con số chính xác những lao tù được gửi tới Guyane.

162.jpg
Tác giả Christèle Dedebant và cuốn “Lao ngục của những người An Nam. Những người tù chính trị lưu đày cuối cùng tại Guyane”.

Lao tù từ 1868 đến 1931

Tuy nhiên khác với những gì còn đọng lại trong trí nhớ của người dân Guyane, không phải chỉ đến khi khu trại trên lãnh thổ Inini được xây dựng mới có lao tù An Nam được đưa tới đây. Trên thực tế lao tù An Nam đã được gửi đến Guyane từ trước phong trào nổi dậy ở Yên Bái. Trong cuốn “Lao tù Đông Dương ở Guyane. Từ giữa những năm 1860 đến 1963”, tác giả Olivier Delesalle giới thiệu một biểu đồ thời gian[3] gắn liền với các sự kiện lịch sử chứa đựng những lý giải cho các đợt đưa lao tù tới Guyane:

- Giai đoạn 1: Bình định Nam Kỳ (1868 - 1882), tổng số 195 lao tù.

- Giai đoạn 2: Chinh phục và bình định Bắc Kỳ (1883 - 1897), tổng số 552 lao tù.

- Giai đoạn 3: Các cuộc đàn áp chống lại các phong trào dân tộc Việt Nam từ những năm 1905 (1905 - 1923), tổng số 471 lao tù.

- Giai đoạn 4: Các cuộc đàn áp chống lại các đảng phái chính trị Việt Nam (1927 - 1931), tổng số 535[4] lao tù.

Tuy nhiên theo nghiên cứu của O. Delesalle, chỉ khoảng 20% trong tổng số những con số trên là tù chính trị dù các đợt gửi lao tù có mối liên hệ nguyên nhân - kết quả trực tiếp với các phong trào khởi nghĩa tại An Nam. Tác giả còn giải thích thêm: “Ước tính con số 1/5 lao tù là “tù chính trị” phải được hiểu đây là con số ở mức kịch trần, mức ước tính cực đại nhằm bao quát ở mức tối đa tất cả các trường hợp gây ra từ những khó khăn trong việc nhận dạng đặc điểm của tù nhân chính trị tại thế kỷ XIX. Trên thực tế, các thẩm phán vào thời điểm đó thường sử dụng cáo buộc tội trạng này một cách rất chung chung khi họ không thể định danh tội phạm một cách rõ ràng, chẳng hạn như “kẻ nổi loạn” và “kẻ cướp”. Chúng tôi gom tất cả những “kẻ nổi loạn” và “kẻ cướp” vào con số lao tù chính trị với giả định rằng, những khái niệm tội danh này bao hàm ý nghĩa của sự phản đối quyền lực thực dân”.

163.jpg
Cuốn sách “Lao tù Đông Dương ở Guyane. Từ giữa những năm 1860 đến 1963” của Olivier Delesalle.

Tù chính trị từ khởi nghĩa Yên Bái và Thái Nguyên

Trong một xu hướng khác, một số sử gia cho rằng, con số này nằm dưới mức thực tế của số lượng tù chính trị bị lưu đày tới Guyane. Theo Danielle Donet-Vincent, tiến sĩ ngành Lịch sử học, trong cuốn “Hải ngoại. Tạp chí lịch sử”, NXB Hiệp hội Lịch sử Hải ngoại Pháp, 2021, phân tích:

“…theo tuyên bố của Paris “những cá nhân bị kết án theo luật dân sự, bao gồm án tử, lao động cưỡng bức, tù, bãi quyền công dân (nên) được coi là tù dân sự”, bất kể lý do kết án là gì. Danh sách các tù nhân bị đày đến Guyane cho thấy nhiều người trong số họ bị kết án về tội “âm mưu chống lại Nhà nước”, nhưng lại xếp vào án dân sự. Để xoa dịu dư luận và các đảng phái cánh tả tại Đại lục, Paris có thể đã cho thu hồi các văn bản pháp luật cho phép trục xuất những người bị kết án ở Campuchia, An Nam, Bắc Kỳ ra khỏi lãnh thổ Đông Dương (…) Ngoài ra, với các điều khoản ngoại lệ, Paris đã quyết định lưu đày những người tham gia phong trào dân tộc Yên Bái, diễn ra vào tháng 2 năm 1930, cũng sẽ được gửi đến Guyane[5]”.

Những nhận định trên của Danielle Donet-Vincent cũng tương đồng với ý kiến của Christèle Dedebant:

“Trong giới cai ngục thuộc địa, việc đánh đồng các loại tội phạm còn lâu mới là chuyện hiếm: Từ lâu, tội danh tù “nửa-chính trị” là loại hình tội danh luôn bị cố tình nhầm lẫn - được áp dụng cho tất cả các loại tội phạm dân sự trong các vụ án bên lề mang tính chính trị - cho phép lách lệnh cấm của luật pháp năm 1850[6][7].

Để chứng minh cho nhận định của mình, bà đưa ra trường hợp của chuyến tàu chở tù nhân mang tên “La Martinière” vào năm 1922. Chuyến tàu này mang theo 471 tù nhân An Nam từ Côn Đảo đến Guyane. Theo báo cáo của chính quyền thì trên chuyến tàu này chỉ có 6% là tù nhân chính trị. Vậy mà phần lớn trong số tù nhân chịu án lưu đày đều là tội phạm của vụ khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, một vụ nổi dậy có số lượng người tham gia lên tới hàng nghìn và trở thành cuộc khởi nghĩa dân tộc có tầm vóc đầu tiên tại Đông Dương.

Vậy nếu tính đúng thì con số 6% tù nhân chính trị tại thời điểm này là một sự cố tình lừa dối hay chỉ là sự tình cờ của thời cuộc khiến cùng lúc với vụ khởi nghĩa, tại Thái Nguyên số lượng người phạm tội tăng đột biến?

Sự lừa dối này khó có thể qua mắt được các nhà báo cùng các chính trị gia tại đại lục Pháp. Trong số các chính trị gia lên tiếng vì những người tù bản địa phải kể đến Marius Moutet, thành viên chủ chốt của liên hiệp Quốc tế Công nhân, đảng viên đảng xã hội kiêm ủy viên của hội đồng Liên hiệp Nhân quyền. Có lẽ ngay cả bây giờ, Marius Moutet không phải là cái tên xa lạ với người Việt Nam.

(Còn nữa)

[1] Hình thành theo sắc lệnh ban hành ngày 22 tháng 1 năm 1931.

[2] Trại Saut Tigre (dịch nghĩa: Trại Hổ Vồ) nằm bên bờ Sinnamary, là nơi giam giữ phần lớn các tù nhân chính trị An Nam, cũng là nơi có nhiều tổn thất về nhân mạng nhất. Nơi đây từng giam giữ khoảng 200 người vào năm 1933. Gần mười năm sau, vào năm 1944, con số này giảm chỉ còn 130 người, số còn lại đã tử vong.

[3] Tr. 17.

[4] Con số 535 lao tù năm 1931 thường được rất nhiều sử gia sử dụng như con số tổng các lao tù An Nam được đưa đến Guyane.

Ngoài ra cần phải lưu ý, con số “535” mà tác giả đưa ra có một sự khác biệt nhỏ so với con số mà C. Dedebant đưa ra trong lời mở đầu cuốn sách “Lao ngục của những người An Nam. Những người tù chính trị lưu đày cuối cùng tại Guyane”:

“Trong khi nước Pháp đang giữ vị trí thứ hai trong tốp đầu đế chế thực dân trên thế giới, ngày 17 tháng 5 năm 1931, con tàu Marinière, một con tàu - nhà tù với bốn tầng lồng kim loại, đã thả neo tại Sài Gòn Đông Dương.

Trên tàu có năm trăm ba mươi tám người “An Nam”, gồm tù dân sự và tù chính trị, đã cập bờ tại Cayenne ở Guyane vào ngày 30 tháng 6 năm 1931, sau 44 ngày hải trình”.

[5] Tr. 212.

[6] Luật trục xuất chính trị ngày 8 tháng 6 năm 1850?

[7] Lao ngục của những người An Nam. Những người tù chính trị lưu đày cuối cùng tại Guyane”, NXB Actes Sud, 2024, tr. 34.

Lao tù An Nam tại Guyane (kỳ 1)

Xem thêm