Le petit Parisien số 16975, ngày 21/8/1923, với ảnh minh họa châm biếm cuộc sống địa ngục của các lao tù.
Le petit Parisien số 16975, ngày 21/8/1923, với ảnh minh họa châm biếm cuộc sống địa ngục của các lao tù.

Lao tù An Nam tại Guyane (Kỳ 4)

Kỳ 4: Albert Londres, huyền thoại về hồi kết của chế độ lao ngục[1]

Trở về từ Guyane, từ ngày 8/8 đến ngày 6/9/1923, Albert viết tổng cộng 27 bài phóng sự in trên trang nhất phác họa lại “địa ngục của những người bị kết án một tướng mạo chân thực, khủng khiếp và đáng thương[2]” của hệ thống lao ngục.

Một suy nghĩ ở đây cũng là… tội ác

Năm 1923, dưới áp lực của dư luận, tờ Le Petit Parisien, một trong những tờ nhật báo lớn của nước Pháp vào thời điểm đó đã cử nhà báo nổi tiếng Albert Londres tới Guyane thực hiện phóng sự điều tra về hệ thống lao ngục tại nơi đây.

Trước khi đặt chân lên mảnh đất Guyane, trên con tàu Biskra vốn chỉ để “chở những con cừu từ Alger tới Marseille nay được thăng chức lên hàng tàu biển trên vùng biển Antilles[3]”, Albert được chứng kiến cuộc bắt giữ 11 lao tù trốn trại tìm đường trốn sang Vénézuela trên một chiếc ca-nô cũ nát tìm lại tự do “Chúng tôi không sợ. Giữa tự do và lao tù thì chỉ có cái chết chứ không có chỗ cho sự sợ hãi”.

Thật không may, cuộc đào tẩu của họ kết thúc với “một nghìn năm trăm ngày trong ngục tối sau khi đã mạo hiểm cuộc sống trong bảy ngày và bảy đêm trên biển. Một thủy thủ chuyên nghiệp nếu sống sót được qua thời gian đó chắc sẽ được trao huân chương, còn tôi thì bị người ta tra tấn”.

Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ trên con tàu Biskra, Albert đặt chân lên bờ với sự trợ giúp của chính 11 lao tù đó.

Càng đi sâu vào đất liền, bất ngờ càng nhiều: “Lao ngục không phải là bộ máy hình phạt, được hoạch định rõ ràng, được xử lý nghiêm túc với quy tắc bất biến. Đó là một nhà máy sản xuất ra những điều bất hạnh làm việc không cần kế hoạch, không cần bản đồ. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy ở đây những bản mẫu sản xuất ra các lao tù. Đó là một nhà máy nghiền nát những người lao tù, tất cả chỉ có thế, thành những mẩu vụn để lắp ghép vào bất cứ đâu (…). Một suy nghĩ ở đây cũng là một tội ác”[4].

Trước khi đến Guyane, Albert từng là một trong những nhà báo chiến tranh nổi tiếng thế giới. Sau thành công của loạt bài phóng sự về lao ngục trên tờ Le Petit Parisien, năm 1924, Nhà xuất bản Albin Michel đã mua bản thảo của ông và cho ra đời cuốn sách mang tựa đề “Le bagne - Lao ngục” với hơn hai triệu bản bán ra. Hơn một thế kỷ qua, cuốn “Lao ngục” liên tục được tái bản với con số bán ra lên tới hàng triệu. Số tiền bán sách được gia đình Albert dùng để trao thưởng giải thưởng thường niên mang tên “Giải thưởng Albert Londres” dành cho báo chí điều tra đồng thời hỗ trợ các hình thức học bổng, trợ giúp các dự án điều tra, phóng sự.

162.jpg
Chân dung nhà báo lỗi lạc Albert Londres.

Lao ngục bắt đầu khi được tự do

Trở lại với công việc của Albert tại Guyane. Là một nhà báo lớn, Albert hiểu rõ về tình trạng xã hội, kinh tế của Guyane trước khi đặt chân lên tàu đến thuộc địa. Guyane thật sự là một đứa con bảo hộ bị bỏ rơi một cách thảm hại. Với diện tích bằng một phần năm nước Pháp đại lục, nhưng dân số của Guyane chỉ đạt chưa đến 24 nghìn dân tự do, gần 1.000 lính thực dân, 7.000 dân đào vàng và hơn 6.000 lao tù vào năm 1906, mảnh đất giàu có khoáng sản vàng thiếu trầm trọng lực lượng lao động. Để khai thác được tiềm năng kinh tế của Guyane, nhân lực trở thành yêu cầu cấp bách. Trong hoàn cảnh này, lao tù trở thành nguồn cung cấp nhân công rẻ mạt và đông đảo nhất. Hơn nửa thế kỷ trước khi thống đốc Rodier lên tiếng về vấn đề tận dụng nguồn nhân lực này, đạo luật năm 1854 đánh dấu việc thành lập tại các thuộc địa những nhà giam hình sự bên ngoài lãnh thổ nước Pháp đại lục, trong đó có các lao ngục Guyane. Từ đó tới năm 1953, năm đánh dấu cuộc hồi hương của người tù cuối cùng của chế độ lao tù, trong suốt quá trình tồn tại, chế độ lao ngục Guyane đã đón nhận ​​​​hơn 75 nghìn lao tù. Tuy nhiên con số lao tù này dường như vẫn còn quá ít ỏi để khai thác có hiệu quả mảnh đất. Vì thế những lao tù được đưa tới đây dường như đã bị vắt kiệt sức với tỷ lệ tử vong ở một vài thời điểm lên cao hơn 20%. Dẫu vậy góc khuất của những án lưu đày này không chỉ nằm ở con số tù nhân được đưa đến đây mà còn ở cách thi hành án: “Án đôi? Một người bị kết án từ năm đến bảy năm khổ sai, khi án này kết thúc, anh ta sẽ phải lưu trú lại ở Guyane một khoảng thời gian bằng với thời gian kết án. Nếu án dài hơn bảy năm thì nơi đây trở thành nơi thường trú vĩnh viễn (…). Mục đích của luật pháp thật cao cả: Trừng trị và đô hộ, kết quả thật đáng thương. Và đây, đây chính là cách thực thi: Lao ngục chỉ bắt đầu khi họ được thả tự do[5]”.

Việc thực thi án đôi khiến lao tù có thời hạn trở thành lao tù chung thân, biến Guyane trở thành một địa ngục trần gian mà tù nhân mang trái tim nhân đạo hơn cả những người thực thi luật pháp. Câu chuyện của tên đao phủ “Hespel - Sói hoang, tên đao phủ nhân đạo và nhiều tâm sự”[6], mang số hiệu tù 13.174, Hespel Isidore chính là minh chứng. Hespel bị kết án 20 năm khổ sai với tội danh đã ném chiếc cúc quần vào mặt một lính thực dân tại châu Phi. Đến Guyane, Hespel được giao công việc đao phủ. “Ở lao ngục, khi một kẻ lao tù được giao nhiệm vụ hành quyết, sẽ trở thành một kẻ quyền năng, nhưng vì tôi là một con người có trái tim và sự tử tế… công việc tối cao này không được đi ngược lại với trái tim nhân đạo, thà rằng là một tên đao phủ bảo vệ những kẻ bị ức hiếp còn hơn là một người dân thường, như Deibler, hắn thậm chí còn không biết cả danh tính của những nạn nhân của hắn”. Với suy nghĩ đơn giản đó, Hespel đối xử với những người bạn tù vừa bị chém đầu như đối xử với một con người trong khi những cai tù đối xử với tù nhân còn sống như những con vật đã chết.

Sai lầm nghiêm trọng của chế độ lao ngục

Và khi không thể kể hết những sự đau đớn của địa ngục trần gian Guyane, những nỗi thống khổ mà những lao tù phải hứng chịu, những “kẻ cùng khổ không đi bằng bốn chân (…): Họ trả lời chúng ta khi chúng ta hỏi họ, họ không sủa”[7].Tuy vậy mảnh đất lao ngục Guyane nơi cứ 10 người dân mới có một người là công dân tự do nhưng lại là nơi Albert Londres cảm thấy rất an toàn: “Họ chào các ngài, họ bắt tay các ngài, giúp các ngài vượt qua vùng nước trũng. Nếu họ rút dao, đó là để cho các ngài mượn khi cần mở một hộp đồ ăn. Họ có thể băm vằm các ngài thành nhiều mảnh. Chẳng có gì khiến họ chùng tay. Họ có thời gian và không gian để làm. Vậy mà họ thậm chí chẳng thèm nghĩ tới việc đó. Mười tám ngày tôi lang thang trong rừng không có đội bảo vệ. Đội quân đi cùng tôi chỉ có: Ba lao tù, một con quỷ hút máu[8] và hai kẻ bị kết án vì tội giết người. Những lao tù mà tôi đã gặp cũng chẳng hơn gì họ. Vậy mà nếu có sấm đánh xuống đầu tôi, những người đồng hành cùng tôi hẳn sẽ sẵn sàng dàn hàng ngang bảo vệ tôi. Tôi đã từng bị trộm cắp rất nhiều trên những cung đường ở mọi nơi trên thế giới; ở đây thì không”[9].

Càng về gần cuối của chùm phóng sự, hiện thực của lao ngục Guyane càng trần trụi “Chúng ta chứng kiến sai lầm nghiêm trọng của chế độ lao ngục. Đó chính là luật pháp, nhưng luật pháp lại nhầm lẫn (…). Hai nghìn bốn trăm bốn mươi tám[10] con người, tâm lý tổn thương, thể chất hủy hoại, họ chỉ còn là những con vật? Thậm chí không còn là con vật! Những con vật ghẻ lở bị xua đuổi (…). Họ ngồi trên vỉa hè, những chiếc bóng vật vờ. Khi bạn đi qua, họ mở mắt và lại nhắm mắt ngủ tiếp. Chế độ thuộc địa là thế đó!”[11].

Ngày 6/9/1923, kết thúc chùm phóng sự, Albert Londres trực tiếp nhắn gửi đến Albert Sarraut, Bộ trưởng Thuộc địa “Sẽ không phải là những cải tổ mà Guyane cần, sẽ phải là một cuộc cải cách sâu sắc[12]”. Tuy nhiên những kiến nghị của Albert đã phải đợi rất lâu mới có lời đáp trả.

Ngày 17/6/1938, 15 năm sau chính phủ Daladier chính thức ra sắc lệnh bãi bỏ việc đưa tù nhân đến Guyane. Dẫu vậy cho đến cuối năm đó, chính quyền Pháp vẫn thực hiện chuyến tàu cuối cùng chở theo 609 lao tù đến Saint-Laurent-du-Maroni vào ngày 14/12. Sau chuyến tàu lưu đày cuối cùng này, những lao tù ở Guyane phải đợi đến hết Thế chiến thứ II mới được hồi hương.

(Còn nữa)

[1] Tựa đề bài phóng sự về Albert Londres in trên tạp chí Lịch sử, số 513 in tháng 11/2023. nhân một trăm năm ngày in chuỗi phóng sự do ông thực hiện trên Le Petit Parisien vào năm 1923.

[2] Lời tựa của chuỗi bài phóng sự với bài mở đầu “Điều tra ở lao ngục - Lênh đênh về phía Guyane” ra ngày 8/8/1923.

[3] “Điều tra ở lao ngục - Lênh đênh về phía Guyane”.

[4] “Điều tra ở lao ngục - Cuộc tiếp xúc đầu tiên với lao tù” số ra ngày 10/8/1923.

[5] “Điều tra ở lao ngục - Quán Garnier, nhà hàng của những kẻ được trao trả tự do” số ra ngày 11/8/1923.

[6] Tiêu đề của bài viết số 5 ra ngày 12/8/1923.

[7] “Điều tra ở lao ngục - Khoảnh sân của những phép lạ” số ra ngày 24/8/1923.

[8] Tù nhân chuyên trộm cắp ở nghĩa trang bị kết án lưu đày tới Guyane.

[9] “Điều tra ở lao ngục - Tại nơi những lao tù trần trụi” số ra ngày 26/8/1923.

[10] Những người đã thực thi xong án nhưng bị bỏ rơi tại Guyane.

[11] “Điều tra ở lao ngục - Tai tiếng: Cuộc sống của những người được trả tự do” số ra ngày 5/9/1923.

[12] “Điều tra ở lao ngục - Một vài gợi ý” số ra ngày 6/9/1923.

Xem thêm