Ngưỡng chịu thuế đang được nhiều hộ kinh doanh nhỏ quan tâm. Ảnh: NGUYỆT ANH
Ngưỡng chịu thuế đang được nhiều hộ kinh doanh nhỏ quan tâm. Ảnh: NGUYỆT ANH

Đề xuất về ngưỡng chịu thuế hộ kinh doanh

Ngưỡng doanh thu chịu thuế với hộ kinh doanh tiếp tục là điểm nóng tranh luận. Nhiều ý kiến cho rằng, mốc 200 triệu đồng/năm đã không còn phù hợp thực tế, cần nâng lên 400-500 triệu đồng. Câu hỏi đặt ra không chỉ là thu bao nhiêu cho đủ, mà là một ngưỡng thuế công bằng.

Tại hội thảo lấy ý kiến về định hướng chính sách của dự thảo luật Quản lý thuế (thay thế) do Cục Thuế (Bộ Tài chính) tổ chức, bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam (VTCA), đề xuất nâng ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với hộ, cá nhân kinh doanh từ mức 200 triệu đồng/năm như Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) của Bộ Tài chính lên 400-500 triệu đồng/năm.

Nâng mức chịu thuế lên gấp đôi để phù hợp

Theo bà Cúc, mức doanh thu 200 triệu đồng/năm thực chất chỉ tương đương khoảng 540.000 đồng/ngày, quá thấp nếu xét chi phí hoạt động của hộ kinh doanh trong bối cảnh hiện nay. Với giá cả nguyên liệu, nhân công và chi phí sinh hoạt ngày càng tăng, mức doanh thu này khó có thể phản ánh đúng quy mô và hiệu quả hoạt động thực tế của nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ.

Ngưỡng 400 - 500 triệu đồng/năm, tương đương 1 triệu đồng/ngày sẽ phù hợp với thực tiễn và giúp giảm áp lực hành chính và chi phí tuân thủ cho hàng triệu hộ cá thể. Trong bối cảnh Bộ Tài chính đang lấy ý kiến sửa đổi mức giảm trừ gia cảnh đối với thuế TNCN, dự kiến trình vào tháng 10 tới, việc điều chỉnh tương ứng ngưỡng miễn thuế cho hộ kinh doanh cũng thích hợp.

Đồng quan điểm, luật sư Trần Xoa, Giám đốc Công ty Luật Minh Đăng Quang cho rằng, có sự bất hợp lý rõ rệt giữa chính sách thuế hiện hành đối với cá nhân và hộ kinh doanh. Hiện, mức giảm trừ gia cảnh dành cho người nộp thuế TNCN là 11 triệu đồng/tháng, tương đương 132 triệu đồng/năm. Cộng với mức giảm trừ cho một người phụ thuộc (4,4 triệu đồng/tháng), tổng giảm trừ có thể lên tới khoảng 260 triệu đồng/năm. Trong khi đó, hộ kinh doanh có doanh thu 200 triệu đồng/năm chưa trừ bất kỳ chi phí nào đã phải chịu thuế, điều này theo ông là “bất hợp lý rõ ràng”.

Ông Xoa cũng viện dẫn chính sách đang được Bộ Tài chính lấy ý kiến sửa đổi, trong đó đề xuất tăng mức giảm trừ gia cảnh từ 11 triệu đồng/tháng lên 13,3 triệu hoặc 15,5 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ cho người phụ thuộc cũng sẽ tăng từ 4,4 triệu lên 5,3 hoặc 6,2 triệu đồng/tháng.

“Nếu áp dụng phương án cao nhất, người nộp thuế có thể được giảm trừ tới 21,7 triệu đồng/tháng, tương đương 260,4 triệu đồng/năm”, luật sư Xoa phân tích. Sẽ xảy ra trường hợp mức thu nhập thực tế của cá nhân còn cao hơn nhiều hộ kinh doanh mà vẫn chưa phải chịu thuế.

Tương tự, luật sư Nguyễn Đức Nghĩa, Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Hội Doanh nghiệp TP Hồ Chí Minh (HUBA) cũng cho rằng, cần thiết phải điều chỉnh tăng ngưỡng doanh thu đối với cá nhân và hộ kinh doanh khi thực hiện nghĩa vụ thuế cũng như khi xuất hóa đơn. Điều này nhằm giảm thiểu những bất cập đang tồn tại trong thực tiễn.

Các hộ kinh doanh có doanh thu hơn 1 tỷ đồng/năm buộc phải xuất hóa đơn. Tính trung bình, mức doanh thu này tương đương với khoảng 2,7 triệu đồng mỗi ngày, hay 83 triệu đồng mỗi tháng. Nhiều hộ kinh doanh dù đạt mức doanh thu này nhưng thực chất lợi nhuận thu về thấp. Họ phải gánh thêm chi phí xuất hóa đơn, vận hành và các khoản phát sinh khác…

Các con số tuyệt đối sẽ sớm lỗi thời

Tại hội thảo góp ý Luật Quản lý thuế sửa đổi, bà Nguyễn Vân Chi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội bày tỏ sự đồng tình với chủ trương chuyển từ thuế khoán sang kê khai. Tuy nhiên cũng cần phải có số liệu rõ ràng: hiện thu được bao nhiêu thuế từ hộ kinh doanh, mức khoán hiện hành chiếm bao nhiêu phần trăm doanh thu và nếu chuyển sang kê khai thì nghĩa vụ thuế tăng hay giảm.

Bà Chi cũng đề nghị cần đánh giá cụ thể tác động của chính sách mới: doanh thu tính thuế có thay đổi không, chi phí phát sinh như đầu tư thiết bị, thuê kế toán ra sao? Nếu phương pháp mới khiến doanh thu tăng mạnh, ngành thuế cần điều chỉnh lại tỷ lệ thu cho hợp lý, thậm chí xem xét sửa cả Luật Ngân sách nhà nước chứ không chỉ Luật Quản lý thuế.

Trong khi đó, luật sư Nguyễn Đức Nghĩa cũng thẳng thắn chỉ ra rằng, bất cập lớn trong các quy định thuế suốt nhiều năm qua là việc sử dụng các con số tuyệt đối cố định, vốn nhanh chóng trở nên lạc hậu trước tốc độ biến động của nền kinh tế. Thay vì quy định cứng ngưỡng doanh thu chịu thuế bằng một con số tuyệt đối, pháp luật nên trao quyền cho Chính phủ được linh hoạt điều chỉnh mức này hằng năm, căn cứ vào các biến động giá cả trong rổ hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cấu thành chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Giá hàng hóa và chi phí đầu vào tăng lên mỗi năm, trong khi sức mua không tăng tương ứng, doanh thu danh nghĩa có thể tăng nhưng số lượng hàng hóa bán ra lại giảm kéo theo lợi nhuận thực tế bị sụt giảm.

Từ thực tế này, nhiều ý kiến cho rằng, về lâu dài, khi đã đủ lớn về quy mô, thị trường và sản phẩm, các hộ kinh doanh nên chuyển đổi thành doanh nghiệp để mở rộng hoạt động, tăng tính minh bạch, dễ tiếp cận vốn, thị trường và công nghệ. Tuy nhiên, thực tế quá trình “lên đời” này vẫn rất chậm, thậm chí có dấu hiệu “giậm chân tại chỗ”.

Sự chần chừ của hộ kinh doanh không xuất phát từ tâm lý né tránh, mà từ nỗi lo có thật: quy trình phức tạp, chi phí tuân thủ cao, thiếu hỗ trợ cụ thể và rủi ro bị giám sát quá mức sau khi “ra ánh sáng”. Điều trớ trêu là những rào cản ấy vẫn tồn tại dù Việt Nam đã có hàng loạt nghị quyết và đề án cải thiện môi trường kinh doanh.

Rõ ràng, điều thiếu lúc này không phải là chính sách trên giấy, mà là hành động cụ thể trên thực tế. Khi con đường chuyển đổi thật sự được dọn sạch chướng ngại, được thiết kế để đồng hành thay vì làm khó, hộ kinh doanh sẽ không còn lý do để đứng ngoài cuộc chơi lớn.

Dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi đề xuất chia hộ, cá nhân kinh doanh thành bốn nhóm theo doanh thu. Cụ thể, Nhóm 1: dưới 200 triệu đồng/năm, không phải nộp thuế; Nhóm 2: từ 200 triệu đến dưới 1 tỷ đồng; Nhóm 3: từ 1-3 tỷ đồng (sản xuất) hoặc 1-10 tỷ đồng (dịch vụ); Nhóm 4: hơn 10 tỷ đồng. Trong đó, nhóm 3 và 4 sẽ phải dùng hóa đơn điện tử và áp dụng chế độ kế toán phù hợp.

Xem thêm