Phóng viên (PV): Thưa bà, nhiều người vẫn còn mơ hồ về khái niệm doanh nghiệp xã hội (DNXH). DNXH có điều gì khác biệt so doanh nghiệp thông thường và quá trình hình thành, phát triển của loại hình này ở Việt Nam đến nay như thế nào?
Bà Phạm Kiều Oanh: Tháng 6/1999, sau khi chứng kiến cảnh trẻ em đường phố lay lắt mưu sinh, Jimmy Phạm đã mở một tiệm sandwich nhỏ ở Hà Nội với 9 học viên đầu tiên. Từ lớp học nấu ăn, pha chế và nghiệp vụ khách sạn ấy, KOTO không chỉ trao nghề mà còn thay đổi số phận gần 2.000 thanh - thiếu niên yếu thế. DNXH đầu tiên ở Việt Nam ra đời như thế và dần lớn mạnh với trung tâm đào tạo, nhà hàng và được cộng đồng cả trong lẫn ngoài nước công nhận.
DNXH không phải “một loại hình đặc thù” mà là cách tiếp cận mới: kinh doanh để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường, còn lợi nhuận chỉ là phương tiện để duy trì và mở rộng tác động. Nói ngắn gọn, DNXH mang trong mình “mục tiêu kép”: Vừa hiệu quả kinh tế, vừa giá trị cộng đồng.
Khi CSIP ra đời năm 2008, khái niệm này gần như xa lạ. KOTO hay nhiều mô hình khác loay hoay không biết mình thuộc về đâu, trong khi xã hội còn nghi ngại, coi đó chỉ là từ thiện hay chiêu trò truyền thông. Được truyền cảm hứng từ phong trào DNXH quốc tế, đặc biệt ở Anh, chúng tôi kiên trì vận động để pháp luật công nhận. Tôi nhớ mãi lần đưa TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương khi đó đến Trung tâm Nghị lực sống của hai anh em Nguyễn Công Hùng, Nguyễn Thảo Vân. Thấy họ dạy nghề, tạo việc làm cho hàng trăm người khuyết tật nhưng phải hoạt động “chui” vì thiếu pháp lý, anh Cung càng quyết tâm luật hóa mô hình doanh nghiệp này. Trước Quốc hội, khi có đại biểu nghi ngờ DNXH “có đủ lớn để đưa vào luật hay không”, anh đã nói: “Người làm luật phải có tầm nhìn cho tương lai, để thúc đẩy những giá trị xã hội mong muốn”.
Kết quả, Luật Doanh nghiệp 2014 lần đầu thừa nhận DNXH tại Điều 10; sau đó là Nghị định 96/2015 và các thông tư hướng dẫn. KOTO trở thành DNXH đầu tiên đăng ký theo luật. Đó là dấu mốc quan trọng: từ hoạt động thiện nguyện tự phát, DNXH bước sang “thiện doanh” - một con đường bền vững và hiệu quả. Hiện, đã có khoảng 1.000 DNXH đăng ký theo Luật Doanh nghiệp...
Ngay từ những ngày đầu, chúng tôi đã đồng hành cùng nhiều mô hình nay thành biểu tượng như Tòhe, Trung tâm Sao Mai hay Sapa O’Chau. CSIP đã hỗ trợ hơn 350 DNXH và doanh nghiệp tạo tác động xã hội (SIB) trong nhiều lĩnh vực, tạo gần 30 nghìn việc làm, trực tiếp thay đổi cuộc sống của 108 nghìn người và nâng cao chất lượng sống cho khoảng 600 nghìn người khó khăn. Đáng mừng là 80% số đơn vị được ươm tạo đã trưởng thành và mở rộng, chứng minh sức sống bền bỉ của mô hình mang sứ mệnh kép.

PV: Việc đăng ký mô hình DNXH đôi khi chỉ như một “chiếc áo”, điều cốt lõi vẫn là doanh nghiệp đó có thật sự tạo ra giá trị cho cộng đồng hay không. Từ trải nghiệm của mình, bà thấy những mô hình nào ở Việt Nam đang thể hiện rõ nhất tinh thần đó, và điều gì cần được thúc đẩy để tinh thần “thiện doanh” lan tỏa rộng hơn?
Bà Phạm Kiều Oanh: Tôi luôn nhấn mạnh: DNXH chỉ là cái tên, điều cốt lõi là mô hình kinh doanh có thật sự phục vụ cộng đồng hay không. Ở Việt Nam, ngoài DNXH đăng ký theo luật, còn nhiều doanh nghiệp tuy không mang “nhãn” DNXH nhưng vẫn đặt mục tiêu xã hội và môi trường làm trọng tâm. Khác biệt lớn nhất giữa họ với doanh nghiệp thông thường là giá trị cộng đồng được tích hợp ngay trong mô hình, có mục tiêu, chiến lược và cách đo lường rõ ràng, chứ không chỉ dừng ở các hoạt động tuân thủ hoặc tự phát.
Vinasamex là thí dụ điển hình: Hợp tác với hơn 3.800 nông hộ, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, để sản xuất quế, hồi hữu cơ cho thị trường quốc tế. Nhờ đó, đời sống người dân cải thiện, một hệ sinh thái sản xuất bền vững hình thành. Dù không đăng ký DNXH, nhưng sứ mệnh xã hội đã in trong DNA của doanh nghiệp. Họ sẵn sàng hy sinh lợi ích ngắn hạn để gắn bó với cộng đồng. Và chính điều này lại trở thành lợi thế cạnh tranh, giúp Vinasamex vươn thành nhà xuất khẩu hàng đầu.
Doanh nghiệp tạo tác động xã hội ở Việt Nam có thể chia làm ba nhóm: DNXH (hình thành với sứ mệnh xã hội ngay từ đầu, như KOTO, Nghị lực sống); doanh nghiệp tạo tác động (SIB) - vẫn tăng trưởng vì lợi nhuận nhưng đồng thời giải quyết vấn đề xã hội, như các mô hình bao trùm (Shanam, Traphaco Sapa, Thảo dược Tây Nguyên) hay kinh tế xanh (Selex Motors, Cricket One, AirX); và doanh nghiệp theo định hướng bền vững - áp dụng ESG để giảm thiểu tác động, bảo vệ quyền lợi con người và quản trị minh bạch, dù không đặt sứ mệnh xã hội làm trung tâm.
Nhà nước cũng bắt đầu cởi mở hơn, như Quyết định 167/QĐ-TTg (2022-2025) về hỗ trợ kinh doanh bao trùm và kinh tế tuần hoàn. Nhưng hệ sinh thái hỗ trợ DNXH, SIB vẫn hạn chế: Chính sách thiếu đồng bộ, thị trường nhỏ, tiếp cận vốn khó khăn. Trong khi đó, ở Anh hay Hàn Quốc, nhà nước và các tập đoàn lớn chính là “đầu tàu”. Vì vậy, cần cơ chế hợp tác giữa SIB với doanh nghiệp lớn, cùng dòng vốn linh hoạt từ cá nhân, cộng đồng.
Với tinh thần “thiện doanh”, năm 2025 CSIP thành lập Quỹ Đầu tư tạo tác động Én Xanh (BSIF), huy động cả vốn tài chính và phi tài chính từ cộng đồng để nuôi dưỡng, mở rộng các sáng kiến xã hội.
PV: Hiện nay, các mô hình DNXH ở Việt Nam đang ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Theo bà, đâu là thách thức lớn nhất của DNXH, và làm sao để chuyển từ những nỗ lực tự phát sang chiến lược bền vững, có thể nhân rộng?
Bà Phạm Kiều Oanh: Trong bối cảnh nhiều biến động, điều khiến tôi tin tưởng là DNXH vẫn bền bỉ và giàu sức sống. Họ sáng tạo, thích ứng để tiếp tục sứ mệnh. KOTO không chỉ đào tạo nghề và vận hành nhà hàng, mà còn mở rộng sang mô hình VietHarvest để tái phân phối thực phẩm. Từ một trung tâm nhân đạo, Nghị lực sống đã trở thành công ty cổ phần DNXH, dạy nghề công nghệ thông tin cho thanh niên khuyết tật với sự đồng hành vốn của hơn 20 doanh nghiệp, trong đó có Alphanam. Những tổ chức xã hội phi lợi nhuận truyền thống như CED (hỗ trợ người khiếm thính) nay đã tự chủ tài chính, 80% doanh thu đến từ dịch vụ, nhưng vẫn giữ nguyên sứ mệnh xã hội.
Trong mảng phát triển xanh, Cricket One sản xuất bột protein từ dế cho xuất khẩu; AirX biến xơ dừa thành pallet vật liệu zero carbon; VietHarvest và Foodbank Việt Nam tái phân phối hàng triệu suất ăn cho cộng đồng yếu thế, riêng Foodbank đã cung cấp hơn 20 triệu bữa ăn. Shanam - trà cổ thụ Tây Bắc - hợp tác với gần 300 hộ người H’Mông, vừa tạo sinh kế, vừa bảo tồn rừng chè shan di sản.
Thực tế ấy đang cho thấy sự chuyển đổi rõ rệt từ “từ thiện” sang “thiện doanh”, với SIB đóng vai trò mũi nhọn. Nhưng để nhân rộng, cần chính sách, nguồn lực và công cụ đánh giá rõ ràng. Rào cản lớn là chi phí xã hội chưa được tính đúng. Đơn cử, Tòhe tổ chức sân chơi cho trẻ thiệt thòi, đưa tranh vẽ của trẻ em tự kỷ vào sản phẩm; chi phí cộng đồng ấy nếu tính đủ sẽ đội giá, khiến sản phẩm khó cạnh tranh. Vì vậy, rất cần cơ chế hỗ trợ thị trường và ưu đãi tài chính để DNXH bù đắp phần chi phí xã hội.
Ở chiều ngược lại, CSIP ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp tạo tác động có sản phẩm đổi mới, tiềm năng thị trường lớn, để vừa giảm chi phí, vừa lan tỏa lợi ích cho cộng đồng.
Tôi mong rằng trong 10 năm tới, Việt Nam sẽ hình thành một thế hệ doanh nhân xã hội mới - những người chủ động dấn thân và sáng tạo, nhìn thấy cơ hội trong chính những vấn đề xã hội và môi trường cấp bách nhất, để từ đó tạo ra giá trị cho mình, cho xã hội và môi sinh. Lúc đó, tinh thần thiện doanh không chỉ dừng lại ở một vài điển hình, mà sẽ trở thành một dòng chảy tự nhiên trong cộng đồng doanh nghiệp. Khi ấy, xã hội Việt Nam sẽ thật sự “giàu có” hơn - không chỉ ở con số GDP, mà còn ở chất lượng cuộc sống, sự công bằng và tính bền vững cho các thế hệ tương lai.
PV: Trân trọng cảm ơn bà!