Báo cáo Cập nhật Kinh tế Việt Nam của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, Việt Nam có lợi thế khi sở hữu lực lượng lao động STEM (Thuật ngữ viết tắt của: Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) trẻ, đông đảo và đang gia tăng nhanh.
Năm 2023, cả nước có khoảng 560.000 chuyên gia trẻ từ 22 đến 35 tuổi tốt nghiệp đại học các ngành STEM. Đây là một con số ấn tượng đối với nền kinh tế mới nổi. Nguồn cung sinh viên mới tốt nghiệp cũng tăng gần 10% mỗi năm giai đoạn 2019-2023, phản ánh nhu cầu nhân lực công nghệ rất lớn và nỗ lực của Chính phủ trong việc đào tạo thêm kỹ sư và nhà khoa học.
Thiếu vắng đội ngũ tinh hoa
Theo bà Trần Thị Ánh Nguyệt, chuyên gia kinh tế, Ban Giáo dục của WB, lợi thế lớn nhất là Việt Nam có nguồn nhân công trẻ được đào tạo bài bản và khả năng tiếp thu công nghệ khá tốt, đặc biệt là từ các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việt Nam cũng nằm ở một khu vực sôi động nhất thế giới về đổi mới sáng tạo và phát triển khoa học - công nghệ.
“Vị thế của Việt Nam gần đây trên bản đồ đổi mới sáng tạo (ĐMST) và phát triển khoa học và công nghệ (KHCN) đã có bước tiến đáng kể, đứng thứ 44 trong bảng xếp hạng ĐMST. Việt Nam cũng đứng hai trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình và trung bình cao về chỉ số phát triển con người theo xếp hạng của WB. Nguồn nhân lực trẻ của Việt Nam có nền tảng tương đối tốt”, bà Nguyệt nhấn mạnh.
Tuy nhiên, chuyên gia này nhấn mạnh ba điểm nghẽn căn bản của Việt Nam trong việc phát triển nhân tài công nghệ. Thứ nhất là việc đầu tư tài chính như thế nào cho đúng, cho đủ và có trọng tâm theo hướng cân bằng cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Lấy thí dụ về trường hợp đầu tư cho cụm KHCN và ĐMST tại Kuaka Lumpur (Malaysia), bà Nguyệt cho biết, quốc gia này đã đầu tư trong vòng 20 năm liên tục với ngân sách là 1% GDP. Đến nay, họ mới lọt bảng xếp hạng top 100 các cụm KHCN và ĐMST hàng đầu thế giới.
“Điều này cho thấy đầu tư phát triển nhân lực chất lượng cao không phải là câu chuyện một sớm một chiều”.
Thứ hai là vòng lặp luẩn quẩn giữa đào tạo đại học và sau đại học ở Việt Nam. Hiện tỷ lệ nghiên cứu viên xuất sắc và tiến sĩ ở Việt Nam rất thấp, so với các quốc gia trong khu vực chỉ với khoảng 30%, trong khi con số này ở Malaysia là khoảng 100%.
Điều này dẫn tới tình trạng chảy máu chất xám ngày càng nghiêm trọng, những nhóm tinh hoa dẫn đầu ĐMST trong nước ngày càng thiếu vắng. Bên cạnh đó, khả năng liên kết giữa doanh nghiệp và trường đại học hay các cơ sở nghiên cứu rất lỏng lẻo khi các bên đều chưa thật sự tìm thấy cơ hội và động lực trong việc thúc đẩy đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Báo cáo của WB cũng chỉ ra năm 2023, cả nước có khoảng 80.900 nhân lực R&D (quy đổi toàn thời gian) chỉ chiếm khoảng 0,15% tổng số lực lượng lao động. Điều này đồng nghĩa chỉ có chưa đến 800 cán bộ nghiên cứu/một triệu dân vào năm 2023, thấp hơn đáng kể so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực và thấp hơn mục tiêu quốc gia là đạt ít nhất 12 nhân lực R&D toàn thời gian /10.000 dân vào năm 2030.
Kích hoạt “vòng xoay” nhân lực
Từ thực tế, WB khuyến nghị Việt Nam nhanh chóng mở rộng nguồn cung nhân tài, tăng quy mô lực lượng lao động kỹ năng cao và sinh viên tốt nghiệp, đồng thời nâng cao chất lượng chuyên môn. Điều này đòi hỏi bồi dưỡng nhân tài trong nước, thu hút và giữ chân chuyên gia quốc tế, kể cả kiều bào.
Giải pháp gồm triển khai học bổng cho học viên và nhà nghiên cứu trẻ trong lĩnh vực công nghệ ưu tiên. Ban hành cơ chế ưu đãi để mời gọi kiều bào và chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy, nghiên cứu, làm việc tại doanh nghiệp công nghệ. Xây dựng quỹ giảng viên xuất sắc để nâng chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học - kỹ thuật.
Bên cạnh đó, cần xây dựng chương trình đào tạo hiện đại gắn với nhu cầu doanh nghiệp. Hiện đại hóa chương trình đào tạo đại học thông qua phối hợp với doanh nghiệp để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và nhu cầu ngày càng phát triển của ngành thông qua chương trình
“đại học xuất sắc” công nghệ cao.
Theo bà Trần Thị Ánh Nguyệt, đào tạo nhân tài công nghệ ở Việt Nam cần được triển khai song song cả trước mắt và lâu dài. Theo bà, có những giải pháp phải thực hiện ngay để mang lại kết quả nhanh, trong đó quan trọng nhất là tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường, giúp sinh viên được tiếp cận thực tiễn, còn doanh nghiệp có nguồn nhân lực phù hợp nhu cầu.
Lấy thí dụ về cơ chế hợp tác công - tư PPP của Singapore và Malaysia, bà Nguyệt cho biết mô hình này tạo điều kiện để giảng viên, nhà nghiên cứu luân chuyển linh hoạt giữa đại học và doanh nghiệp. Họ vừa nhận lương từ doanh nghiệp, vừa được Chính phủ hỗ trợ, nhờ đó nhanh chóng tích lũy kinh nghiệm thực tiễn và nâng cao chuyên môn.
Ngoài ra, cần đầu tư bài bản hiện đại hóa hạ tầng để giữ chân đội ngũ nhân lực chất lượng cao, tạo môi trường làm việc hấp dẫn và bền vững.
“Nếu chúng ta thiếu cơ sở hạ tầng để nghiên cứu và thực nghiệm thì vẫn là thiết kế, là nghiên cứu nhưng sẽ chỉ xếp trên giá một thời gian rất lâu mà không thể đi vào sản xuất được. Nhân lực nhân tài sẽ không phát huy, phát triển được năng lực của họ”, bà Nguyệt nhấn mạnh.
Để tận dụng tiềm năng từ cộng đồng doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các tập đoàn công nghệ cao, chúng ta cần xây dựng nền tảng đồng tài trợ trung và dài hạn nhằm kết nối các công ty đa quốc gia với doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà cung ứng và cơ sở giáo dục trong nước. Mục tiêu là địa phương hóa kiến thức, làm sâu chuỗi cung ứng và thúc đẩy chuyển giao công nghệ.
Các khoản hỗ trợ sẽ tập trung phát triển nhà cung ứng, triển khai dự án trình diễn gắn với trường đại học và nâng cao kỹ năng lao động, được thiết kế để lan tỏa tác động trong nước. Doanh nghiệp FDI sẽ hướng dẫn nâng cấp năng lực cho nhà cung ứng, trong khi các dự án được đồng tài trợ tối đa 50% kinh phí, gắn với các sản phẩm đầu ra cụ thể như số lao động được đào tạo, quy trình mới được áp dụng và tài sản trí tuệ được chia sẻ.
Phát triển nhân tài công nghệ không thể là nhiệm vụ ngắn hạn mà đòi hỏi tầm nhìn chiến lược, đầu tư liên tục và hành động quyết liệt ngay từ bây giờ. Chỉ khi tháo gỡ được những điểm nghẽn hiện tại, Việt Nam mới nắm bắt được cơ hội vàng để bứt phá và vươn lên mạnh mẽ trong kỷ nguyên kinh tế số.