Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (giữa) đang trò chuyện cùng các đại biểu tham dự cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ trong hai ngày 7-8/10/1987, trong đó có đạo diễn Trần Văn Thủy (thứ ba từ trái sang).
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (giữa) đang trò chuyện cùng các đại biểu tham dự cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ trong hai ngày 7-8/10/1987, trong đó có đạo diễn Trần Văn Thủy (thứ ba từ trái sang).

Một hành trình để được nói lên sự thật

Có lẽ, không ít người thuộc lớp cư dân Thủ đô trung tuổi còn nhớ như in hình ảnh những hàng dài khán giả háo hức chờ đợi mua vé thưởng thức bộ đôi phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế của gần bốn thập kỷ trước.

Để rồi từ đó, thông điệp “văn nghệ phải nói lên sự thật, đừng uốn cong ngòi bút, phải viết cái điều mình nghĩ” của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã trở thành ngọn gió đổi mới mát lành, giúp con thuyền văn nghệ Việt Nam căng buồm lướt ra biển lớn.

Một bộ phim “có vấn đề”

Trước sự kiện công chiếu Hà Nội trong mắt ai và Chuyện tử tế, phim tài liệu thường chỉ xuất hiện dạng “bia kèm lạc” trong những phút mở màn suất chiếu phim truyện.

Bởi vậy, hai tác phẩm của đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Văn Thủy đã tạo nên dấu mốc đầy ấn tượng trong lịch sử điện ảnh Việt Nam, khi lần đầu đĩnh đạc chiếm trọn thời lượng một buổi chiếu, lần đầu có thể bán vé thu tiền và lần đầu tạo ra một hiệu ứng xã hội sâu rộng đến thế.

Những khán phòng các rạp Tháng Tám, Kinh Đô, Dân Chủ, Bạch Mai ... đông nghẹt khán giả, dù đã chiếu tới ba ca/ngày. Những thông điệp chuyển tải của phim trở thành chủ đề chính trong những cuộc chuyện trò “trà dư tửu hậu”.

Không chỉ có vậy, Hà Nội trong mắt ai vinh dự nhận tới bốn Bông sen Vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1988, cho bộ phim cùng ba cá nhân xuất sắc (đạo diễn, biên kịch, quay phim).

Còn Chuyện tử tế được trao giải Bồ câu Bạc tại Liên hoan phim quốc tế Leipzig (Cộng hòa dân chủ Đức) năm 1985. Nhưng không nhiều người, trong số đông hào hứng tới rạp để khóc cười cùng từng trường đoạn, buồn vui cùng mỗi lời bình năm đó, biết được, tác giả cùng tác phẩm đã phải kinh qua lộ trình nổi chìm, thăng giáng ra sao để nhận lại những tràng pháo tay không dứt của họ.

Xấp xỉ 5 năm sau ngày hoàn thành, Hà Nội trong mắt ai mới có thể đường hoàng ra rạp, dù trong suốt hành trình lận đận “lên thác, xuống ghềnh” ấy, không hề tồn tại bất kỳ một văn bản chính thức nào cấm lưu hành bộ phim này. Và cũng nhờ “đầu xuôi”, Chuyện tử tế, vốn chịu cảnh nằm im trong ngăn kéo đã hai năm mới có thể “đuôi lọt”, để cùng nhau cất lên tiếng nói phản biện trĩu nặng ưu tư cùng trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ.

Nhận kịch bản mang đậm sắc màu quảng bá du lịch có tên Hà Nội năm cửa ô vào đầu năm 1982, đạo diễn Trần Văn Thủy băn khoăn lắm.

Như ông từng viết trong Chuyện nghề của Thủy (tự truyện của ông và Lê Thanh Dũng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, năm 2013): “Ngó ra ngoài phố xá, cảnh người rồng rắn xếp hàng mua khẩu phần lương thực, những người cơ nhỡ lay lắt nơi công viên vỉa hè. Chùa chiền di tích, phố cổ, của ngon vật lạ, con người thanh lịch... đâu còn như trong giấc mơ xưa của cụ Hoàng Ðạo Thúy. Làm một bộ phim mầu dài năm, sáu cuộn với một số tiền không nhỏ chỉ để chiếu chác vài lần lấy lệ rồi bỏ xó thì thật là thất nhân tâm”.

Cũng trong những trang sách ấy, ông chia sẻ về tháng ngày ròng rã lang thang vào các đền, chùa, lục tìm tư liệu trong các thư viện, trò chuyện cùng nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết... Để rồi chợt bàng hoàng nhận ra, “thì ra trước đây, tôi chẳng hiểu gì về Hà Nội cả. Tôi thấy ngàn lần có lỗi với tiền nhân vì không ý thức được rằng, cha ông ta đã dày công ra sao, đã hoài vọng như thế nào đối với hậu thế”.

Không thực hiện theo phong cách chính luận đương thời, chẳng khoa trương hay tự hào về những gì đang có, Hà Nội trong mắt Trần Văn Thủy hiện lên da diết, phảng phất chút ngậm ngùi từ tình yêu mảnh đất nghìn năm của người nghệ sĩ guitar khiếm thị Văn Vượng, từ họa sĩ tài danh Bùi Xuân Phái. Hà Nội trầm mặc, chiêm nghiệm trong chiều sâu tư tưởng với những bài học về cách thức trị nước yên dân nhận lại từ các bậc tiền nhân.

Một số phận nổi chìm

Trong quá trình duyệt phim, những cật vấn, hoài nghi xoay quanh lời bình có nhiều từ ngữ “ám chỉ, đụng chạm”, những thông điệp đa tầng ngữ nghĩa kiểu “mượn xưa nói nay” khiến nhiều người có trọng trách do dự. Sau nhiều suất chiếu nội bộ, vẫn lửng lơ đâu đó một “lệnh cấm bất thành văn”, chẳng ai đề cập tới việc đưa phim ra rạp.

Sau khi xem phim trong một buổi chiếu riêng vào ngày 18/10/1983, đích thân đồng chí Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo “phải tổ chức chiếu công khai cho nhân dân xem, càng rộng, càng nhiều càng tốt”. Nhưng, chẳng ai ngờ, vài tháng sau chỉ đạo ấy, việc chiếu bộ phim lại rơi vào thinh lặng. Phải tới gần bốn năm sau, tháng 5/1987, Hà Nội trong mắt ai được ra mắt một khán giả quan trọng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và ngay sau đó, lại diễn ra một buổi chiếu phim quy tụ những người có trọng trách; tất cả đồng loạt bỏ phiếu thuận để bộ phim chính thức được công chiếu vào ngày 26/9/1987.

Giữa những tháng ngày chênh vênh vì Hà Nội trong mắt ai, đạo diễn Trần Văn Thủy bắt tay thực hiện một dự án mới. Không ẩn dụ nhẹ nhàng như phim trước, Chuyện tử tế nhìn thẳng, nói thẳng và nói thật để chuyển tải riết róng, trực diện một thông điệp thẳm sâu về tình người: “Xã hội có thể tốt đẹp ngay nếu con người với con người ăn ở với nhau tử tế”. Hoàn tất phim vào năm 1985, khi cái án treo Hà Nội trong mắt ai vẫn đang lơ lửng, đạo diễn đành ngậm ngùi cất đi. Và chờ đợi!

Cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ kéo dài hai ngày 7-8/10/1987 đã trở thành một sự kiện đặc biệt, khi Tổng Bí thư dành phần lớn thời gian để lắng nghe. Gặp đạo diễn bên hành lang sự kiện, đồng chí Nguyễn Văn Linh thẳng thắn đề nghị “anh nên làm tập 2”. Thêm chút “tiểu xảo” bổ sung hai chữ “Tập 2” dưới tiêu đề Chuyện tử tế, bộ phim đã chính thức được hồi sinh.

Dù đạo diễn Trần Văn Thủy từng chua xót nhìn lại: “Phim nổi tiếng không phải vì thông tuệ hoặc hay ho tài giỏi gì mà vì nó gây ra sự tranh cãi ồn ĩ một thời gian dài. Người ta đã chen nhau xếp hàng mua vé đi xem chỉ vì nó... bị cấm, bị quy thành vấn đề chính trị. Chung quy nó nổi tiếng vì sự đa nghi thái quá, mẫn cán thái quá của một số người có chức quyền thời đó mà thôi”; dù ông vẫn khiêm tốn tự nhận “xem lại thấy ngượng về nghề, chỉ là những cảnh đơn sơ lắp ghép lại, được dẫn dắt bởi lời bình mang tính ẩn dụ”; Chuyện tử tế cùng với Hà Nội trong mắt ai đã làm nên dấu ấn khó quên trong đời và nghiệp của Trần Văn Thủy.

Đừng uốn cong ngòi bút

Văn nghệ phải nói lên sự thật. Hãy đi vào trong thực tế quần chúng đã. Cởi trói được rồi hãy viết chứ đừng uốn cong ngòi bút, đừng uốn cong tư duy, tình cảm của mình. Đó là thông điệp mạnh mẽ mà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã thẳng thắn đưa ra với gần 100 gương mặt tiêu biểu, trong cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ mang tính lịch sử vào năm 1987 kể trên.

So với những “quả nổ” văn hóa văn nghệ tái hiện “đêm trước đổi mới” xuất hiện sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, hai tác phẩm ấy đã đảm nhiệm vị trí đi trước thời đại, khi ra đời năm 1982 và 1985. Cả hai, bằng tâm thế “nhìn thẳng, phản ánh đúng và đánh giá đúng sự thật” đã trở thành thí dụ sinh động cho lời hiệu triệu của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh “cởi trói cho văn nghệ sĩ”, “tự cứu mình trước khi trời cứu”. Cả hai đều thể hiện thái độ nhập cuộc quyết liệt, khi đưa ra những thông điệp căn cốt của “lòng dân, vận nước”, “lấy dân làm gốc” bằng ngôn ngữ nghệ thuật thuyết phục.

Có thể nói, làn gió đổi mới đã giúp những tác phẩm dám đi đến tận cùng sự thật này tìm được con đường đến với công chúng, từ đó lan tỏa những tiếng nói phản biện đầy trách nhiệm của các văn nghệ sĩ dũng cảm dấn thân, với thái độ làm nghề không khoan nhượng để được nói thật những điều mình nghĩ suy, trăn trở. Không có làn gió ấy, khó có được bầu không khí “thăng hoa độc đáo” đã mang lại vụ mùa bội thu Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1991 (với ba tác phẩm xuất sắc được vinh danh Thân phận tình yêu, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến không chồng), những vở kịch gây tiếng vang của tác giả Lưu Quang Vũ (Bệnh sĩ, Lời thề thứ 9), những bộ phim ám ảnh (Cô gái trên sông, Tướng về hưu)...