Giáo sư, Tiến sĩ, Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính mở đầu câu chuyện dài với chúng tôi như vậy, về tiến trình qua tám thập kỷ của nền kiến trúc hiện đại Việt Nam hòa trong dòng chảy chung của lịch sử dân tộc.
Dấu mốc khởi đầu lớn lao của một thời đại
Phóng viên: Thưa ông, ông có thể diễn giải cụ thể hơn quan điểm chọn thời điểm khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để nhìn lại lộ trình phát triển của kiến trúc hiện đại ở Việt Nam?
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Kiến trúc hiện đại Việt Nam khởi điểm sớm hơn, song chúng ta hãy tập trung xem xét từ năm 1945, năm khởi đầu lớn lao của một thời đại, mà kiến trúc đương nhiên sản sinh từ đó. Kiến trúc hiện đại kế thừa và dựa vào đâu để tiến triển? Trước tiên là dựa vào kiến trúc truyền thống, song đã có sự chuyển hóa, tiếp thu những cái mới và tiến bộ của kiến trúc phương Tây, dựa vào nền kiến trúc thực dân, xâm nhập vào nước ta từ nửa sau thế kỷ 19, trở nên chủ đạo ở các đô thị đầu thế kỷ 20.
Theo quan điểm của tôi, sự phát triển kiến trúc từ năm 1945 có thể phân chia thành bốn thời kỳ, liên quan mật thiết tới những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước: 1945-1954, 1954-1975, 1975-1986 và 1986 đến nay.
Cũng cần nói thêm, những nhận xét của tôi chủ yếu là về kiến trúc miền bắc vì rất tiếc là cho đến nay, vẫn chưa xuất hiện những khảo cứu thỏa đáng về mỹ thuật và kiến trúc miền nam trước ngày 30/4/1975.
Phóng viên: Vậy thưa ông, đặc điểm chính mà nền kiến trúc của chúng ta xác lập trong bốn thời kỳ ấy bao gồm những gì?
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Chín năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ, Hà Nội và nhiều đô thị bị tàn phá, hầu như không xây dựng gì mới. Vài chục kiến trúc sư cùng kỹ sư giao thông công chính theo Bác Hồ lên chiến khu.
Di sản còn lại của thời ấy là những bản vẽ in đá phác thảo nhà thông tin, trạm xá, ủy ban kháng chiến xã... Suốt 11 năm sau đó, giai đoạn 1954 tới 1965, miền bắc hàn gắn vết thương chiến tranh và cải tạo xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hòa bình. Tiếp đó là 10 năm miền bắc vừa xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội vừa chống chiến tranh phá hoại, chi viện miền nam. Phía nam vĩ tuyến 17, cuộc chiến diễn ra hầu như liên tục và rộng khắp, kinh tế phát triển theo thị trường, kiến trúc chịu ảnh hưởng từ phương Tây.
Với những điều kiện hạn chế ngặt nghèo bởi chiến tranh cùng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp ở miền bắc, chúng ta vẫn xây dựng được khá nhiều công trình ấn tượng. Từ cuối những năm 1950 đến những năm 1960, nhiều công trình tương đối lớn do các kiến trúc sư thuộc thế hệ được người Pháp đào tạo thiết kế, như Trường Nguyễn Ái Quốc, Bảo tàng Việt Bắc, Tổng cục Thống kê Việt Nam, Trường đại học Thủy lợi... Các công trình này đã cho thấy sự kết hợp nhuần nhị giữa hai luồng ảnh hưởng Pháp thuộc địa và Liên Xô-Trung Quốc của giai đoạn 1940-1950.
Sự mạch lạc trong bố cục, thích dụng về công năng, chừng mực trong trang trí của chúng là hiện thân của kiến trúc theo xu hướng hiện thực. Cũng từ cuối những năm 1950, chúng ta đã chú trọng xây dựng nên các khu tập thể theo chế độ bao cấp về nhà ở. Tiền ít, nhu cầu lớn và bức bách nên khẩu hiệu duy ý chí “nhanh- nhiều- tốt- rẻ” trở thành chủ đạo. Hàng trăm nhà tập thể lắp ghép xuất hiện tại các đô thị mà ở mỗi căn, sự tối thiểu hóa đến mức tột cùng đã biến chúng thành sản phẩm trực tiếp và điển hình của xã hội bao cấp.
Ngày nay, chúng trở thành những dị thể trong đô thị đang giàu đẹp lên, tạo ra những ứ tồn cả về lịch sử lẫn văn hóa cộng cư để rồi bị “chuồng cọp hóa”, “ổ chuột hóa” dần theo thời gian, tạo ra những núi phế liệu vô sinh. Ngoài ra, cho đến trước đổi mới, kiến trúc phía bắc chịu ảnh hưởng đơn phương, trực tiếp từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện đặc biệt trên những công trình do phía bạn viện trợ và thiết kế, như Đại học Bách khoa, Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Bảo tàng Hồ Chí Minh, v.v...
Công cuộc đổi mới khởi đầu từ năm 1986 và phát huy mạnh mẽ từ những năm 1990 đã mở ra cục diện hoàn toàn mới cho phát triển xây dựng và kiến trúc. Dựa vào nền kinh tế thị trường và chính sách mở cửa cùng với sự tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế-xã hội, kiến trúc đã có bước phát triển đặc biệt dài, đạt được sự tiến bộ toàn diện, tăng tốc đầy năng nổ trong quá trình rượt đuổi để tiệm cận thế giới rồi đạt tới khái niệm bùng nổ trong một vài thập kỷ gần đây.
Phóng viên: Ông vừa nhắc đến "bước phát triển đặc biệt dài" của kiến trúc đất nước. Hẳn là trên bước đường đó, có không ít điều đặc biệt, đặc thù do hoàn cảnh xã hội đưa lại, thưa ông?
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Biểu hiện trước tiên là công cuộc đô thị hóa. Những thành phố lớn nhanh chóng hoàn thiện các khu trung tâm cũ, hiện đại hóa và tăng cường kỹ thuật hạ tầng, mở rộng về không gian. Hàng trăm đô thị mới và các cấu trúc dân cư kiểu đô thị hình thành đã tạo lập một diện mạo kiến trúc. Tuy nhiên, tổ chức cũng như hình hài của chúng khá manh mún và hỗn độn, các giá trị kiến trúc-cảnh quan của những đô thị cũ đang dần mai một, sự cân bằng sinh thái có nguy cơ tan vỡ.
Có một vấn đề sâu xa về phương diện xã hội, đô thị hóa có thể nhanh song thành thị hóa (sự tạo lập văn hóa đô thị về mọi phương diện) không diễn ra cùng quá trình ấy. Nếu không chú trọng sắc thái hóa trong công cuộc đô thị hóa thì yếu tố cạnh tranh giữa các địa phương hay vùng miền sẽ bị lu mờ, suy giảm.
Mấy thập kỷ qua, cuộc sống ở thôn quê và kiến trúc làng quê đã trải qua biến đổi mang tính bước ngoặt. Cuộc sống vật chất và tinh thần khấm khá lên chưa từng thấy kéo theo sự mở mày, mở mặt của diện mạo ngôi làng, kiên cố hóa, tiện nghi hóa và đô thị hóa.
Tuy vậy, xuất hiện những nỗi lo: Tan biến nhanh mô hình cư trú theo khuôn viên khép; thịnh hành xây nhà liền kề dạng phân lô dẫn đến hiện tượng phố hóa đường làng; căn nhà ở đa phần được xây cất theo hình thức “hộp” hóa, thiếu sự hòa đồng với chung quanh; có sự sao chép trang trí kiến trúc rườm rà, vay mượn từ thành thị.
Tôi nghĩ, chúng ta nên hướng tới kiến lập mô hình “nông thị” (agritown) cho phép kết hợp nhuần nhị, khả thi các yếu tố kinh tế nông nghiệp cộng lối sống nông thôn khác biệt đô thị và môi trường sinh thái tự nhiên. Duy trì được mô hình nông thị, ta sẽ tạo lập được sự cân bằng vĩ mô, giữa thiên nhiên- nông thị-thành phố.
Nói tóm lại, chặng đường lịch sử 80 năm tưởng như rất dài nhưng thật ra vẫn khá ngắn ngủi để nền kiến trúc hiện đại Việt Nam tìm ra mình, tương ứng với thời đại.
Đừng đóng đinh khái niệm bản sắc
Phóng viên: Nhân nhắc tới “bản sắc” trong kiến trúc Việt hiện đại, khái niệm ấy có hình hài ra sao, trong suy nghĩ của riêng ông?
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Trong di sản kiến tạo của dân tộc Việt, có lẽ sâu xa nhất, cổ truyền nhất là ba sản phẩm: con đê, ngôi làng và nếp nhà gỗ. Nhìn lại lịch sử ngàn năm của nền kiến trúc Việt, ta sẽ nhận ra kiến trúc gỗ chính là bản sắc truyền thống; hầu hết kiểu nhà có hình chữ nhật với mặt bằng là “gian”. Tính hợp lý và tính kiến tạo, sự phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu, tính con người trong tỷ lệ xích, tính chân thực, sự chừng mực và giản dị là những phẩm chất mà ngôi nhà gỗ Việt từng gánh vác.
Sau này, thành tựu và tiến bộ thể hiện rõ ở khả năng thiết kế và sáng tác các công trình lớn và quy mô, phức tạp về quy trình sử dụng và các yêu cầu kỹ thuật. Các kiến trúc sư đã làm chủ được công nghệ và vật liệu hiện đại, tạo hiệu quả rõ nét về phương diện biểu hiện. Việc biến tấu tài tình những thủ pháp cùng môtíp kiến trúc quen cũ tạo được sự duyên dáng và sức thu hút, từ đó bộc lộ rõ cái tài “nhại” của người Việt mình.
“Kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc” trở thành một đòi hỏi cấp thiết với văn học nghệ thuật nói chung trong bối cảnh hội nhập thế giới ngày càng sâu rộng. Riêng trong kiến trúc hiện nay, đòi hỏi này nên được hiểu thế nào, theo ông?
Tiên tiến và bản sắc là những đòi hỏi đương nhiên, không chỉ với kiến trúc. Muốn tồn tại thì phải phát triển, nhưng phát triển mà không giữ bản sắc thì sẽ bị đồng hóa. Bị đồng hóa không những dễ đánh mất mình mà còn mất đi nhân tố xúc tác sự phát triển.
Bản sắc kiến trúc không phải là một khái niệm hình thức, một mục đích tự thân. Nó chỉ có thể tạo lập khi chúng ta làm chủ được những tinh hoa đích thực của văn hóa dân tộc, nắm vững và đáp ứng đầy đủ nhu cầu của xã hội và con người Việt Nam đương đại, trang bị đầy đủ tri thức của nền kiến trúc thế giới.
Chúng ta có thể hội nhập và hòa đồng, song những kiến trúc xuất phát từ cảm thức Việt, đi ra từ suy nghĩ, từ cơ thể mình, phù hợp với nhu cầu của mình thì đó chính là bản sắc. Đừng “địa chỉ hóa”, “đóng đinh hóa” khái niệm này.
Bản sắc nảy nở, tích tụ, tinh lọc, biến đổi, tự phủ định và thu nạp, kế thừa, song không bất biến mà luôn ứng biến và trở thành sản phẩm - hàm số của thời gian. Mà đã là thời gian ắt phải là dòng chảy, không thể chảy ngược. Thời đại này cũng như mọi thời đại trước, vừa đào thải vừa kế thừa lại vừa đào luyện bản sắc mới. Chúng ta không thể ôm khư khư mãi bản sắc của thời đã qua.
Bản sắc của dân tộc Việt Nam trước tiên là sản phẩm của cuộc giằng co với đất trời, với ngoại bang để sinh tồn, quật cường và dẻo dai. Chúng ta ngày càng nói nhiều về bản sắc, thậm chí còn có ý luật hóa, biến nó thành thước đo đánh giá chất lượng và sáng tác kiến trúc. Việc sử dụng nó như một tiêu chí cho sáng tác dễ dẫn đến chủ nghĩa hình thức, kìm hãm sự tiến bộ của kiến trúc hôm nay. Người Việt ta, dù có đi bốn phương trời thì bản sắc và cốt cách vẫn chẳng thể bị đồng hóa. Không nên e ngại quá mức về nguy cơ đánh mất bản sắc để rồi bỏ lỡ cơ hội bứt phá của cả dân tộc.
Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!