Chuyện kể rằng, từ hàng nghìn năm trước, có những dòng người nói hai ngữ hệ Môn Khmer và Malayo-Polynesian trải qua cuộc di cư vạn dặm đến với miền rừng rậm, núi cao trên bán đảo Đông Dương để tìm đất sống. Và rồi, họ trở thành những chủ nhân lâu đời nhất của vùng đất này...
Sự khép kín nhận thức
Trên cuộc hành trình gian nan thuở xa xưa ấy, họ đã gặp vô vàn tai ương, phải chiến đấu với nhiều loại kẻ thù. Từ những cảnh đời trôi dạt tìm chỗ trú thân, các bộ tộc Mnông, Ê Đê, Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Cơ Ho, Mạ... đã gặp một miền núi rừng vô cùng giàu có sản vật, như một kho báu vô tận cho nền kinh tế tự nhiên.
Từ đây, bắt đầu hình thành những cộng đồng gắn bó với rừng, sống dựa vào rừng. Trong không gian sinh tồn đặc thù ấy, đồng bào đã sáng tạo nên một nền minh triết, một hệ giá trị văn hóa được sinh thành từ rừng, nương theo lý lẽ của rừng và chu trình nông nghiệp nương rẫy. Rừng và đất rừng là tài nguyên, là không gian cố kết cộng đồng và quy định ngưỡng hành vi của cư dân miền thượng.
Suốt những tháng năm dài, các tộc người an cư giữa đại ngàn nhưng cũng bị vây hãm bởi những dãy núi sừng sững, những cánh rừng thâm u. Họ tự bằng lòng với những nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần giản dị. Núi rừng nuôi sống họ nhưng cũng tạo nên những thành lũy, những hàng rào khép kín.
Đến thời hiện đại, cùng với những tập tục lạc hậu vẫn còn đất tồn tại, chi phối, một bộ phận đồng bào chưa thoát khỏi tư duy “ăn rừng”, chưa thoát khỏi ý nghĩ chỉ cần vừa đủ, không biết cách tích lũy, đầu tư phát triển. Ngày xưa, cư dân rừng có quyền lực với rừng; khi thiếu gỗ làm nhà, thiếu chất đốt, miếng thịt, con cá, ngọn rau để ăn đến khố váy để mặc, nhạc cụ để chơi họ đều có thể lấy được từ rừng. Lối sống “ăn rừng” đã tạo nên tư tưởng thụ động, tồn tại sâu sắc tâm lý trông chờ, ỷ lại, thiếu sự năng động, thiếu ý thức vươn lên. Có những tư tưởng hình thành từ lâu đời, từng mang ý nghĩa rất nhân văn nhưng không còn phù hợp trong thời hiện đại. Ví như triết lý “ăn chung”.
Theo lẽ ứng xử này, mỗi cá nhân trong cộng đồng luôn được phân phối bằng nhau, không so đo thiệt hơn. Sản vật buôn làng có được chia đều, dù người tốt hay kẻ xấu, lười biếng hay siêng năng, người lớn hay người nhỏ, kể cả cái thai trong bụng hay người già sắp chết. Tính tự ti, tự nhận mình thấp kém cũng là một hạn chế do ảnh hưởng nặng nề bởi đời sống biệt lập.
Bản tính ấy tồn tại lâu dài đã trở thành “tâm thế” của nhiều tộc người. Suốt những tháng năm dài, họ không biết đó là điều dở, chỉ biết ông cha đã từng làm vậy thì mình cũng vậy. Do đó, động lực phấn đấu bị triệt tiêu từ trong nhận thức.
Đến thời kỳ tan rã của chế độ công xã thị tộc, trong xã hội cổ truyền Tây Nguyên xuất hiện sự phân tầng xã hội. Ví như người Mnông chẳng hạn. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở tộc người này đã có các tầng lớp khác nhau, như: k’đăch (vua-như Bảo Đại thời Hoàng triều Cương thổ), n’khun (người quyền lực), n’trang (anh hùng), gru (trí thức), n’dăm (tráng sĩ), drong (chủ nô), bonlantrơi (nông dân trung lưu, thợ thủ công, các thương lái), trơindih (người nghèo đói), n’hum (thầy cúng), dick (nô lệ) và chiach (ma lai).
Chính sự phân tầng này lại một lần nữa tạo nên áp đặt mang tính “định mệnh” về đẳng cấp, đè bẹp ý chí, kìm nén sự phát triển của đông đảo cư dân. Một bộ phận ít ỏi trong các cộng đồng đã trở thành những người lớp trên, tự trao quyền định hướng và cai trị. Nhưng đây cũng là thời điểm mà các tộc người manh nha tinh thần phản kháng. Đỉnh cao là anh em các dân tộc thiểu số Tây Nguyên góp máu xương cùng đồng bào cả nước đấu tranh, đánh đuổi kẻ thù chung, tiếp nhận sự bình đẳng và cơ hội phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ vĩ đại...
Khai thác tiềm năng, thế mạnh của văn hóa tộc người
Đó là một bước đột phá quan trọng, một cuộc cách mạng thay đổi toàn diện. Sự biến động xã hội theo chiều hướng phát triển đã tạo cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên những nhu cầu mới: nhu cầu hiểu biết, nhu cầu thay đổi tư duy, phát huy sự năng động, sáng tạo. Tinh thần chủ động được cải thiện mạnh mẽ. Đồng bào đã từng bước vượt qua sự mặc cảm, tự ti, vượt qua những rào cản nhận thức bảo thủ, cực đoan để cùng cả nước hội nhập, phát triển.
Cũng giống như người Việt, ông bà các tộc người Tây Nguyên cũng luôn dạy thế hệ tiếp nối về ý chí tự lực, tự cường, biết học hỏi, vươn lên. Tiếp cận dòng văn hóa đại ngàn, chúng tôi đã lưu vào tâm trí những dòng luật tục, những điệu dân ca, những lời nói lối của tiền nhân trao truyền cho con cháu trong các buôn làng. Những lời răn dạy giản dị nhưng chính là minh triết nhắc nhở đời sau cố gắng rèn tâm, luyện trí để làm chủ cuộc sống.
Trong lời Mprơ (hát kể) của người Mnông có đoạn: Bu nuyh mât he gu nde/ Gít gu sum bu ma rih/ Gít sóc nau rih bu ma hao/ Gít brao ma gít dơi hươi/ Ralao bu ma dơi mất bri prắp dak/ Rih ueh jêng ấk pâk lơi bu/ Oh môn bư rawê...(Biết học cái mới thì sẽ tồn tại/ Biết chia sẻ cùng nhau mới sống tốt được/ Biết thích nghi mới phát triển/ Biết chạy đua mới biết thắng thua/ Đua hơn người mới giữ được đất rừng/ Có thông minh mới đi lên/ Có tài đức mới giữ được giống nòi...)
Trong câu hát Ndrĩ Nring (dân ca) của người Mạ cũng dạy: “Pal tãn sài song geh pang ùi niăm/ Pal chài khương rồi brài song geh che brài ring/ Pal đơs chài ngắc nàng gơlik cồng dùl nă kwăng...” (Phải dệt cho khéo để có tấm chăn đẹp/ Phải khéo quay guồng để có sợi chỉ đẹp/ Phải nói hay mới trở thành một người quan trọng). Người Cơ Ho cũng hát: “Nếu muốn qua suối thì phải bắc cầu, muốn leo nhà cao thì phải bắc thang, muốn giàu có thì phải siêng năng...”.
Ngày nay, nền tảng kinh tế-xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã có sự biến đổi sâu sắc. Phương thức mưu sinh truyền thống với tập quán dựa vào môi trường tự nhiên gần như không còn cơ sở tồn tại. Nương rẫy của thời phát-đốt-chọc-tỉa mất dần; ao hồ, sông suối tự nhiên bị thu hẹp. Rừng ngày nay đã trở thành một bộ phận trong hệ sinh thái kinh tế-xã hội hiện đại. Cây công nghiệp, kinh tế dịch vụ theo quy luật thị trường đã thay thế dần những cánh rừng xưa của phương thức mưu sinh tự cung, tự cấp.
Từ ngày nước nhà thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên thật sự được giải phóng khỏi đêm trường đói nghèo, lạc hậu; được phát triển bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc anh em. Ngày xưa, với tập quán du canh du cư, cuộc sống đồng bào đói nghèo, cơ cực.
Ngày nay, Nhà nước tổ chức cho người dân định canh định cư, ổn định cuộc sống, sản xuất hàng hóa, vươn lên làm giàu. Khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, tiếp cận thành công kinh tế thị trường nên trên vùng đất này đã xuất hiện nhiều tỷ phú người dân tộc thiểu số.
Đồng bào từng bước loại bỏ tư tưởng thụ động, trông chờ, ỷ lại; phát huy ý chí tự lực, tự cường trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, vươn lên ấm no, hạnh phúc. Nhiều cộng đồng cùng hỗ trợ nhau tiếp cận tư duy kinh tế hiện đại, xây dựng cộng đồng văn minh, tiến bộ. Nhiều cá nhân đã thành công khi họ tự chuyển hóa nhận thức, thay đổi nếp nghĩ, cách làm, tiếp cận thành công nguồn sinh kế bền vững.
Đặc biệt, tiên phong trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên là các bạn trẻ. Những người trưởng thành trong thời kỳ hội nhập đã được trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, trở về bám trụ và lập nghiệp ngay chính nơi chốn mà họ sinh ra.
Trên hành trình thay đổi tư duy, tìm kiếm phương thức làm ăn, họ đã tự tin vượt qua những rào cản cố hữu về tâm lý và tập quán lạc hậu. Họ biết cách khai thác những tiềm năng, thế mạnh của văn hóa tộc người, của địa phương để tổ chức sản xuất-kinh doanh thành công. Sự năng động của giới trẻ Tây Nguyên đã lan tỏa cảm hứng tích cực cho những người đồng tộc và cộng đồng xã hội...