Một chiều mùa thu năm 1986, thầy Tân (PGS Bùi Duy Tân) sai con gọi tôi xuống nhà có việc. Thầy hỏi luôn là cậu làm việc lâu với thầy Võ Quang Nhơn, vậy có biết thầy Nhơn giỏi tiếng Pháp không? Tôi trả lời là chưa nghe thầy dùng bao giờ cả, nhưng tôi biết giáo trình của thầy Nhơn có trích dẫn tài liệu Pháp ngữ. Thầy Tân lim dim mắt:
- Lạ nhỉ? Tôi biết ông Nhơn gần 30 năm rồi, lại cùng bộ môn mà cũng không biết điều đó. Cậu biết không. Tuyệt vời. Chúng tôi sang Phnôm Pênh làm việc với Bộ Giáo dục của nước bạn. Cả đoàn chuyên gia gồm nhiều môn khác nhau để giúp bạn xây dựng giáo trình bậc đại học. Trao đổi qua tiếng Pháp. Phiên dịch của cả bạn và ta dịch rất lõm bõm. Chuyên gia ta nghe câu được, câu chăng. Từ một góc bàn xa, ông Nhơn nhẹ nhàng đứng dậy và dịch lưu loát. Đâu chỉ chuyên môn văn, sử, mà còn địa lý, toán, sinh, hóa... Dịch tất. Chúng tôi phải chia lịch làm việc các môn để ông có thời gian. Ba tháng ròng rã.
Sang bên anh ấy chơi đi - Thầy Tân kéo tôi sang nhà E Thanh Xuân vì cũng gần. Sang đến nơi, thầy Tân vào chuyện luôn:
- Anh giỏi Pháp ngữ thế sao cả đời cứ giấu biệt đi? Phải khẳng định đi chứ.
Thầy Nhơn cười hiền lành: - Anh biết cái thời ta rồi đấy. Nhiều giáo sư lên lớp, quen miệng chen tiếng Pháp vào, sinh viên phản ứng ghê lắm. Anh Đinh Gia Khánh, anh Chu Xuân Diên giỏi tiếng Anh còn đỡ. Vừa chống Pháp xong, ai giỏi tiếng Pháp, người ta cho rằng xu hướng nghiên cứu sẽ theo tư tưởng địch, nên tôi giấu biến đi, không ai biết cả.
Điều này làm tôi nhớ lại lời dặn của thầy khi tôi hướng dẫn luận văn đầu tiên cho sinh viên về sử thi Đẻ đất đẻ nước của tộc người Mường năm 1980. GS Chu Xuân Diên rất khen phương pháp của thầy trò. Đến chiều, thầy Nhơn kéo tôi ra gốc cây xà cừ, dặn khẽ:
- Tốt lắm. Nhưng đến thế thôi nhé. Em theo Lévy Strauss. Đúng đấy. Nhưng dừng lại đã nhé. Rồi người ta không cho em đứng lớp đâu. Phải cẩn thận và từ từ, chờ trời đẹp đã.
Dần dần thầy tâm sự với tôi rằng, thầy vốn từ Quảng Ngãi ra học trường tư thục ở Huế. Theo thầy Hoài Thanh cả về văn chương và hoạt động cách mạng trong phong trào thanh niên. Cách mạng Tháng Tám thành công, người thanh niên 16 tuổi ấy theo sự phân công của tổ chức, lên Cheo Reo (tỉnh Gia Lai cũ) hoạt động. Cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng bào Ê Đê, Gia Rai. Đeo gùi, cầm dao phát, đi rừng phát rẫy. Học tiếng họ thành thạo, nghe những đêm kể Khan bên ché rượu cần, trò chuyện với các cha cố bằng tiếng Pháp.
Thầy tâm sự, ở đất đó hơn 100 năm trước, các cha cố đã lên truyền đạo Ki-tô. Bây giờ, mình cũng có sứ mạng ấy, đi truyền đạo yêu nước, kết đoàn. Chín năm ròng rã, da đen bóng, không ai còn nhận ra thầy là người Kinh. Cách nói năng, giao tiếp cũng đậm chất “đồng bào”.
Năm 1954, thầy tập kết ra bắc cùng đoàn các dân tộc Tây Nguyên. Tổ chức cũng nghĩ rằng thầy là người “dân tộc”. Vì thế, một thời gian ngắn, người ta cử thầy sang Lào giúp cách mạng nước bạn. Rồi sốt rét rừng không tha thầy. Theo đường Hòa Bình, anh em cáng thầy về nước. Thật là may, một ông ké người Mường bày cho phương thuốc: Nhổ một cây ớt chỉ thiên có đủ rễ, cây, cành, lá, hoa, quả... băm nhỏ ra, rang vàng, hạ thổ rồi sắc và uống. Thế mà dứt cơn sốt rồi lành hẳn.
Về Hà Nội tĩnh dưỡng, thầy tìm đến nhà văn Hoài Thanh, người thầy năm xưa đã gieo trong tâm hồn thầy tình yêu văn chương và bày tỏ nguyện vọng theo con đường văn chương. Thế mà mãi đến năm 1960, thầy mới thỏa nguyện, đỗ và theo học Khoa Văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, học khóa 5 (1960-1963).
Cho đến thời điểm hiện nay, tập giáo trình đại học Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983, 475 trang) vẫn là dấu mốc lớn trong việc giới thiệu một cách hệ thống di sản văn học và văn hoá các dân tộc ít người ở Việt Nam. Ý nghĩa của nó đã vượt ra ngoài phạm vi của một cuốn sách giáo trình dùng trong nhà trường, trở thành sách tra cứu cho những ai có nhu cầu tìm hiểu về những đóng góp của văn học các dân tộc ít người vào nền văn học chung của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Bởi thầy thạo tiếng và văn hóa các tộc người Tây Nguyên nên đã được phân công nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian các dân tộc ít người. Thầy lao vào công việc bằng tất cả niềm đam mê, nỗi nhớ đồng bào ở vùng đất vẫn đang bị chiếm đóng, chia cắt. Công việc chính của thầy là hoàn thành giáo trình Văn học dân gian các dân tộc ít người Việt Nam, một công trình đồ sộ về văn học của 50 tộc người mà tiền lệ chưa từng đặt ra trong lịch sử đào tạo ngữ văn hệ đại học. Thầy lặng lẽ thu thập văn học dân gian các tộc người ở Việt Bắc, Tây Bắc và Nam Bộ.
Trong quá trình nghiên cứu, thầy Võ Quang Nhơn kết hợp kinh nghiệm điền dã, biên soạn, phóng tác với lý luận cơ bản mang tính kinh viện. Thầy tham gia biên soạn nhiều cuốn sách truyện cổ các dân tộc như Dân ca Tây Nguyên, Truyện cổ các dân tộc miền Nam, Truyện cổ Cơ Tu, Truyện cổ Cơ Hạ, Chàng Đam Thí, Chặt cây Chu đồng.
Bên cạnh đó, thầy còn biên soạn sách truyện cổ của nước bạn, như Tráng sĩ Hồng Kinh Tôn (truyện cổ Triều Tiên), Bốn cây hoa Chămpa (truyện cổ Lào). Thầy cộng tác với nhiều nhà xuất bản như Kim Đồng, Văn hóa dân tộc...
Cuối những năm 1960, giáo trình Văn học dân gian các dân tộc ít người Việt Nam hoàn thành một số phần và đến năm 1972, giáo trình đã hoàn chỉnh. Khóa Văn khoa chúng tôi (1973-1977) được học môn của thầy qua những tập tài liệu đánh máy trên giấy pelure được ghim lại. Việc in ấn thời ấy rất khó khăn, tính thầy thì luôn luôn nhường nhịn, chịu thiệt về mình nên phải đến hơn 10 năm sau, giáo trình mới được ấn loát dày dặn. Giới nghiên cứu trầm ngâm trước công trình hết sức cơ bản, sánh vai với nhiều giáo trình các bậc đi trước.
Một chương trong bộ giáo trình đó, thầy dùng để bảo vệ thay cho luận án tiến sĩ và nhận học vị Tiến sĩ, học hàm Phó Giáo sư. Phó giáo sư, Tiến sĩ Võ Quang Nhơn cũng như tất cả các thầy, cô của chúng tôi, đều có điểm chung là... nghèo.
Thế hệ đó trải qua đủ các giai đoạn tiền khởi nghĩa, Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chiến tranh giải phóng dân tộc và trở thành những trí thức mẫu mực của đất nước. Nay, càng nghĩ càng thương các thầy cô...