Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng tại Việt Nam đòi hỏi đẩy nhanh tốc độ xanh hóa trong ngành xây dựng.
Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng tại Việt Nam đòi hỏi đẩy nhanh tốc độ xanh hóa trong ngành xây dựng.

Xu hướng tất yếu của vật liệu xanh

Theo thống kê mới nhất từ Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP), ngành xây dựng chiếm tới gần 40% lượng phát thải CO2 toàn cầu, trong đó vật liệu xây dựng chiếm một phần đáng kể. Điều này đặt ra đòi hỏi với các đô thị lớn, phải sớm thay thế vật liệu xây dựng truyền thống bằng vật liệu xanh.

Rào cản phát triển vật liệu thân thiện môi trường

Tại thị trường xây dựng Việt Nam hiện nay, đã xuất hiện nhiều loại vật liệu thân thiện môi trường, như gạch không nung, sơn sinh thái, bê-tông tái chế, tấm panel cách nhiệt, mái lợp tiết kiệm năng lượng... Đây là những dòng sản phẩm đã được chứng nhận đạt tiêu chuẩn xanh.

Lợi ích từ vật liệu xây dựng xanh, như giảm phát thải carbon, tiết kiệm năng lượng, nâng cao chất lượng không gian sống, kéo dài tuổi thọ công trình... là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các chuyên gia ngành xây dựng nhìn nhận: Phần lớn dòng sản phẩm này vẫn nằm ngoài tầm với của đa số người dân có thu nhập thấp và thu nhập trung bình - vốn là nhóm chiếm tỷ trọng cao trong nhu cầu xây dựng nhà ở dân sinh. Nguyên nhân giá vật liệu xanh còn cao, là do quy mô sản xuất dòng sản phẩm còn nhỏ, công nghệ nhập khẩu và chưa được ưu đãi thuế. Thí dụ, khi nhập bột thủy tinh và hạt nhựa tái chế từ nước ngoài, giá vận chuyển tăng cao, chi phí chứng nhận và kiểm định cũng làm đội giá thành không nhỏ. Do đó, vật liệu xanh khó cạnh tranh với vật liệu truyền thống nếu không có sự hỗ trợ từ chính sách thuế, tín dụng hoặc đầu tư nghiên cứu, phát triển từ Nhà nước và các tổ chức quốc tế.

Một rào cản nữa là sự thiếu đồng bộ trong chuỗi cung ứng và đơn vị thi công. “Nhiều thợ xây truyền thống chưa quen với thi công gạch không nung, hay vật liệu lắp ghép, khiến tiến độ bị kéo dài, tăng chi phí. Nếu không có chương trình đào tạo tay nghề và hướng dẫn kỹ thuật, vật liệu xây dựng xanh sẽ khó có chỗ đứng trong xây dựng dân sinh”, chủ một công ty đầu tư và xây dựng tại Hà Nội chia sẻ.

Ông Phạm Đức Nhuận, Phân viện Vật liệu xây dựng miền Nam, Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng, nhận định: Chi phí đầu tư ban đầu cao là một trong bốn thách thức cho việc áp dụng vật liệu xanh. Các dòng sản phẩm này thường có chi phí sản xuất cao hơn so với các vật liệu truyền thống, đặc biệt là trong giai đoạn đầu áp dụng. Điều này có thể gây khó khăn cho nhà thầu xây dựng hoặc người tiêu dùng trong tiếp cận và sử dụng vật liệu xanh. Bên cạnh đó, dù Việt Nam đang dần xây dựng các tiêu chuẩn về vật liệu xanh, nhưng hiện tại vẫn còn thiếu các quy định cụ thể về đánh giá và quản lý chất lượng của dòng sản phẩm này, dẫn đến sự khó khăn trong thực hiện và áp dụng trên diện rộng.

Hơn thế, cũng theo ông Nhuận, nhiều chủ đầu tư, nhà thầu và người tiêu dùng còn chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích dài hạn của vật liệu xanh, như giảm tiêu hao năng lượng, cải thiện chất lượng không khí

trong nhà hay giảm thiểu tác động đến môi trường. Nguồn cung vật liệu xanh trong nước còn hạn chế, dẫn đến việc phụ thuộc vào nhập khẩu, cũng là nguyên nhân gây tăng chi phí và thời gian thi công.

Bộ tiêu chí và chiến lược dài hạn

Theo ông Phạm Đức Nhuận, tại Việt Nam, nhu cầu vật liệu xây dựng ngày càng tăng cao đang đặt ra bài toán lớn về quản lý tài nguyên và phát thải. Chỉ riêng ngành xi-măng Việt Nam trung bình sản xuất khoảng 100 triệu tấn/năm, đóng góp đến khoảng 10% tổng lượng CO2 phát thải của quốc gia. Trong khi đó, lượng chất thải có khả năng tái sử dụng như tro bay, xỉ thép, bùn đỏ..., hằng năm lên đến hàng chục triệu tấn, song tỷ lệ tái chế vẫn thấp. Bởi vậy, sử dụng vật liệu xanh trong xây dựng không còn là lựa chọn mang tính tự nguyện, mà trở thành xu hướng tất yếu của ngành xây dựng trên toàn cầu. Đây cũng là yếu tố then chốt thúc đẩy ngành xây dựng phát triển bền vững, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế và cam kết giảm phát thải của Việt Nam.

Hiện nay Việt Nam đang triển khai nhiều chính sách, mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp và nhà đầu tư trong ngành vật liệu xây dựng xanh, như Chiến lược phát triển vật liệu xanh Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2050; Quy hoạch tổng thể quốc gia, chiến lược tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn; Luật Bảo vệ môi trường 2020 cũng đưa ra quy định về tái sử dụng chất thải rắn trong xây dựng.

Dù vậy, theo các chuyên gia, để phát triển công trình xanh và vật liệu xanh, ngoài việc doanh nghiệp cần đầu tư vào cải tiến công nghệ hiện đại, các công tác nâng cao nhận thức của thị trường cũng như hoàn thiện khung pháp lý là rất cần thiết. Chẳng hạn tại Nghị định 08/2022, Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) quy định tiêu chí và chứng nhận Nhãn sinh thái Việt Nam cho sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; hướng dẫn, kiểm tra thực hiện các tiêu chí Nhãn sinh thái Việt Nam đối với tổ chức, cá nhân có sản phẩm, dịch vụ được chứng nhận. Tuy vậy, đến nay Bộ này vẫn chưa ban hành được bộ tiêu chí sản phẩm vật liệu xây dựng xanh.

Đề xuất các giải pháp, ông Lê Văn Kế, Phó vụ trưởng Khoa học công nghệ, môi trường và Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) nêu: Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phối hợp với các Bộ chuyên ngành xây dựng tiêu chí và chứng nhận Nhãn sinh thái cho từng sản phẩm do Bộ chuyên ngành quản lý. Các cơ quan này sẽ chủ động tích hợp phát triển vật liệu xanh trong các tiêu chuẩn, chương trình, kế hoạch phát triển ngành.

Liên quan đến xây dựng bộ tiêu chí xanh, Bộ Xây dựng cũng đã đề xuất và được chấp thuận đưa vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, nội dung dán nhãn với vật liệu xây dựng.

Nhiều chuyên gia kiến nghị, Việt Nam cần tăng cường khuyến khích đầu tư tư nhân thông qua các ưu đãi tài chính. Chẳng hạn như đẩy mạnh hợp tác quốc tế với Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), cơ quan của Liên hợp quốc về định cư và phát triển đô thị bền vững (UN-Habitat)… để tiếp cận nguồn vốn và công nghệ. Bên cạnh, Nhà nước cần sớm có cơ chế hỗ trợ lãi suất tín dụng cho công trình nhà ở sử dụng vật liệu xây dựng xanh; đồng thời xem xét trợ giá thông qua quỹ môi trường hoặc hợp tác công - tư trong lĩnh vực xây dựng bền vững. Thí dụ, người dân xây nhà ở xã hội hoặc nhà dưới 70 m2 sử dụng trên 50% vật liệu thân thiện môi trường có thể được miễn/giảm thuế xây dựng hoặc hỗ trợ giá vật tư.

Một chiến lược dài hạn cần hướng đến để tiêu chuẩn hóa sản phẩm vật liệu xây dựng xanh, là tích hợp vào quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; có thêm nhiều chính sách đổi mới như ban hành quy định về tỷ lệ vật liệu xây dựng tái chế trong các dự án ngân sách nhà nước (đường, cầu, trường học, bệnh viện…); áp dụng tư duy thiết kế xanh từ đầu - nghĩa là ngay khi lên bản vẽ cần tính toán sử dụng vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng, tái chế và thân thiện môi trường, phù hợp ngân sách từng đối tượng. Đồng thời, đẩy mạnh truyền thông để nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích sức khỏe và chi phí vận hành thấp mà vật liệu xây dựng xanh mang lại.

Xem thêm