Nguồn lực lớn trong dân cần được đưa vào đầu tư sản xuất, kinh doanh. Ảnh: HẢI NAM
Nguồn lực lớn trong dân cần được đưa vào đầu tư sản xuất, kinh doanh. Ảnh: HẢI NAM

Vốn trong dân khơi thông sản xuất

Dòng tiền gửi của dân trong hệ thống ngân hàng đã lên tới xấp xỉ 200 tỷ USD. Đó là chưa tính đến lượng lớn khác đang "trú ngụ" trong vàng hoặc ngoại tệ… Tất cả những nguồn lực này nếu được khơi thông và đẩy mạnh vào sản xuất, xung lực phát triển kinh tế sẽ rất ấn tượng.

Tính đến tháng 11/2024, tổng tiền gửi của dân cư tại hệ thống ngân hàng đã vượt ngưỡng 7 triệu tỷ đồng, đánh dấu mức cao nhất từ trước đến nay. So với cuối năm 2023, số tiền gửi này tăng thêm 467.549 tỷ đồng, tương đương mức tăng trưởng 7,16%. Riêng trong tháng 11, người dân tiếp tục gửi thêm 22.136 tỷ đồng vào ngân hàng. Bên cạnh đó, lượng tiền gửi từ doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế cũng đạt 7,26 triệu tỷ đồng, tăng 6,26% so với cùng kỳ năm trước.

Nguồn lực “khổng lồ” trong dân

Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 25/12/2024, tổng huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 9,06%, đạt gần 14,7 triệu tỷ đồng. Trong khi đó, quy mô tín dụng đã vượt 15,4 triệu tỷ đồng và khép lại năm ở mức 15,6 triệu tỷ đồng. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chưa công bố con số chính thức về huy động vốn vào thời điểm cuối năm 2024, nhưng nhiều khả năng mức huy động vẫn thấp hơn quy mô dư nợ tín dụng.

Không chỉ gửi tiền ngân hàng, người dân Việt Nam còn nắm giữ một nguồn lực tài chính đáng kể dưới dạng vàng và ngoại tệ. Theo tính toán của Hiệp hội Kinh doanh vàng thế giới, tổng lượng vàng trong dân vào khoảng 400 - 500 tấn, tương đương hàng chục tỷ USD. Nếu một phần số vàng này được đưa vào lưu thông thay vì cất giữ, nền kinh tế sẽ có thêm nguồn vốn dồi dào phục vụ cho sản xuất và kinh doanh. Tuy nhiên, thách thức đặt ra là làm thế nào để khuyến khích người dân tham gia vào hệ thống tài chính một cách tự nguyện, đồng thời bảo đảm niềm tin và sự an toàn, tránh tâm lý e ngại trước những biến động của thị trường.

Một trong những giải pháp được nhiều chuyên gia kinh tế đề xuất là NHNN phát hành chứng chỉ vàng nhằm thay thế cho việc nắm giữ vàng vật chất. Chứng chỉ này sẽ có lãi suất, bảo đảm an toàn tuyệt đối và giúp người dân an tâm hơn khi chuyển đổi tài sản. Trên thực tế, nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình này thành công, miễn là môi trường kinh tế ổn định và người dân hiểu rõ lợi ích của việc chuyển đổi từ “vàng thật” sang “vàng giấy”.

Ngoại tệ phổ biến và được người dân ưa thích tích trữ nhất vẫn là đồng USD. Rất khó để tính toán chính xác số lượng USD do người dân nắm giữ. Riêng năm 2024, số lượng kiều hối về Việt Nam ước đạt 16 tỷ USD. Nếu tính trong giai đoạn từ năm 1993 - 2022, lượng kiều hối về đã lên tới 190 tỷ USD, gần bằng lượng vốn FDI giải ngân. Sau một thời gian dài duy trì chính sách không áp dụng lãi suất cho tiền gửi USD, hầu hết lượng tiền này vẫn ở lại trong dân.

Thực tế, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, để huy động thành công nguồn vàng trong dân vào phát triển kinh tế, điều cốt lõi là phải làm rõ được lợi ích và hiệu quả của việc đầu tư so với việc cất trữ. Hiện nay, tâm lý tích trữ vàng và ngoại tệ vẫn là thói quen phổ biến của nhiều người Việt Nam, đặc biệt là nhóm người cao tuổi, thường giữ vàng như một phương án dự phòng cho các rủi ro về sức khỏe và tài chính.

Mặc dù tình trạng "vàng hóa" và "đô-la hóa" nền kinh tế đã có dấu hiệu giảm, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc người dân sẵn sàng chuyển toàn bộ số vàng và ngoại tệ họ đang nắm giữ sang VND. Vì vậy, muốn dòng vốn này thật sự chảy vào nền kinh tế, các chính sách huy động cần bảo đảm vừa hấp dẫn, vừa tạo niềm tin vững chắc cho người dân, giúp họ nhận thấy lợi ích rõ ràng khi đưa tài sản vào lưu thông thay vì tiếp tục tích trữ.

Hiện có khoảng 60-70% tài sản hộ gia đình nằm trong bất động sản, khiến dòng tiền khó chảy vào sản xuất. Ảnh: MINH LÊ

Hiện có khoảng 60-70% tài sản hộ gia đình nằm trong bất động sản, khiến dòng tiền khó chảy vào sản xuất. Ảnh: MINH LÊ

Tạo sức hấp dẫn từ đâu?

Thu hút dòng tiền nhàn rỗi trong dân vào sản xuất, kinh doanh không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là chiến lược phát triển bền vững. Tuy nhiên, thay vì dùng cụm từ “huy động vốn trong dân” dễ gây hiểu lầm, điều quan trọng là tạo ra các kênh đầu tư minh bạch, an toàn và hấp dẫn để người dân tự nguyện tham gia.

Niềm tin là yếu tố quyết định. Sau các vụ bê bối tài chính như vụ Vạn Thịnh Phát, sự e dè của nhà đầu tư cá nhân ngày càng tăng. Để khắc phục, doanh nghiệp cần công khai báo cáo tài chính, cơ quan quản lý phải giám sát chặt chẽ, đồng thời ban hành các cơ chế bảo vệ nhà đầu tư, chẳng hạn như yêu cầu có tài sản bảo đảm khi phát hành trái phiếu. Khi rủi ro được kiểm soát, người dân sẽ sẵn sàng rót vốn vào nền kinh tế.

Bên cạnh đó, việc mở rộng và đa dạng hóa các kênh đầu tư là chìa khóa quan trọng. Thị trường chứng khoán tại Việt Nam còn nhiều dư địa phát triển khi chỉ khoảng 3-4% dân số tham gia, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Nếu đơn giản hóa thủ tục niêm yết, ưu đãi thuế và phát triển trái phiếu doanh nghiệp với lãi suất hấp dẫn hơn tiết kiệm, dòng tiền trong dân sẽ được khuyến khích đầu tư thay vì giữ tiền mặt hoặc vàng. Ngoài ra, các quỹ đầu tư cộng đồng, cho phép người dân góp vốn nhỏ vào các dự án tiềm năng, cũng là một hướng đi hiệu quả.

Ngoài thị trường tài chính, khuyến khích đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh cũng cần được đẩy mạnh. Các chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ hợp tác giữa doanh nghiệp địa phương và người dân, hay mô hình hợp tác xã sẽ giúp tối ưu hóa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Khi người dân thấy rõ lợi ích, họ sẽ chủ động tham gia thay vì bị động tích trữ tài sản.

Hệ thống ngân hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khơi thông nguồn lực tài chính. Tuy nhiên, với lãi suất tiết kiệm hiện nay chỉ khoảng 5-6%/năm, chưa đủ hấp dẫn so với lạm phát, ngân hàng cần phát triển các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt hơn, kết hợp với đầu tư vào doanh nghiệp để bảo đảm lợi ích lâu dài. Bên cạnh đó, công nghệ tài chính (fintech) như MoMo, ZaloPay có thể phát triển mô hình cho vay ngang hàng (P2P lending), giúp kết nối trực tiếp người có vốn với doanh nghiệp có nhu cầu vay.

Một vấn đề khác cần giải quyết là giảm sức hút của bất động sản và vàng. Hiện nay, khoảng 60-70% tài sản hộ gia đình nằm trong bất động sản, khiến dòng tiền khó chảy vào sản xuất. Nhà nước có thể kiểm soát bằng cách tăng thuế chuyển nhượng và hạn chế đầu cơ bất động sản. Đồng thời, chính sách ổn định tỷ giá và tăng cường các sản phẩm tài chính hấp dẫn sẽ giúp giảm tâm lý tích trữ vàng, đưa dòng tiền vào thị trường đầu tư hiệu quả hơn.

Bên cạnh các giải pháp trên, nâng cao nhận thức tài chính là điều cần thiết. Các chương trình đào tạo, truyền thông về đầu tư và những mô hình thành công thực tế sẽ giúp người dân hiểu rõ lợi ích khi đưa tiền vào sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, Nhà nước có thể thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để bảo vệ nhà đầu tư, đồng thời thí điểm mô hình thu hút vốn tại các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ trước khi mở rộng trên toàn quốc.

Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Nguyễn Văn Thân đánh giá “đặc thù của doanh nghiệp và người dân Việt Nam là khi Tổ quốc, đất nước cần thì sẵn sàng ủng hộ hết mình”. Nhưng xét cho cùng cũng không thể tận dụng tâm lý đó một cách máy móc. Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp từ xây dựng niềm tin, phát triển kênh đầu tư, đến kiểm soát thị trường đầu cơ và giáo dục tài chính… Việt Nam có thể tạo ra một môi trường đầu tư lành mạnh. Nguồn vốn trong dân được tận dụng để đem lại lợi ích tối đa cho cả hai bên. Đây là nền móng vững chắc thúc đẩy sản xuất nói riêng và thúc đẩy kinh tế tư nhân nói chung, tạo động lực tăng trưởng 2 con số trong tương lai.

Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng, lượng vàng trong dân hiện nay là một nguồn lực lớn, nếu không được sử dụng hiệu quả sẽ trở thành một sự lãng phí. Hơn nữa, việc giữ vàng như một tài sản đầu tư cũng tiềm ẩn nguy cơ “vàng hóa” nền kinh tế, làm giảm tính ổn định của hệ thống tài chính.

Xem thêm