Thanh thiếu niên trình diễn chiêng tre tại buôn Tuôr, xã Hòa Phú, tỉnh Đắk Lắk.
Thanh thiếu niên trình diễn chiêng tre tại buôn Tuôr, xã Hòa Phú, tỉnh Đắk Lắk.

Phục hồi rừng gắn với du lịch sinh thái cộng đồng

Việc phục hồi rừng gắn với phát triển du lịch sinh thái cộng đồng đang mở ra hướng đi mới cho đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Đắk Lắk. Điều này sẽ góp phần vào chiến lược phát triển xanh của tỉnh và khu vực Tây Nguyên.

Tiềm năng phong phú

Trưởng phòng Quản lý du lịch, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk Nguyễn Sơn Hưng cho biết, sau khi sáp nhập với tỉnh Phú Yên, tỉnh Đắk Lắk (mới) có diện tích tự nhiên hơn 18.000 km2, lớn thứ ba Việt Nam. Đắk Lắk sở hữu nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, hội tụ đặc trưng vùng núi cao nguyên và Duyên hải Nam Trung Bộ, tạo nên bức tranh đa sắc về thiên nhiên và văn hóa.

Đắk Lắk có dân số hơn 3,3 triệu người với hơn 49 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng. Niềm tự hào của Đắk Lắk là Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và Nghệ thuật Bài chòi đã được UNESCO ghi danh Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Bên cạnh đó, Đắk Lắk còn có tiềm năng phát triển du lịch với bờ biển dài 189 km và núi rừng cao nguyên. Nơi đây có hệ sinh thái rừng khộp, rừng đặc dụng, khu bảo tồn thiên nhiên đặc sắc với các loại hình du lịch đa dạng.

Tiến sĩ Trần Ngọc Thanh, Viện Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trường đại học Đông Á cho biết: Đắk Lắk không chỉ đóng vai trò “lá phổi xanh” điều hòa khí hậu cho cả vùng mà còn là nơi lưu giữ giá trị văn hóa bản địa đặc sắc. Sự cộng hưởng giữa tài nguyên thiên nhiên và di sản văn hóa độc đáo tạo nên tiềm năng lớn phát triển loại hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số.

Tuy nhiên, thực tế phát triển vẫn còn nhiều thách thức cần vượt qua. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030 chỉ ra hạn chế: “Diện tích rừng tự nhiên tiếp tục bị thu hẹp”, “vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng còn xảy ra”, trong khi “hoạt động du lịch chưa tương xứng với tiềm năng hiện có; sản phẩm du lịch chưa phong phú, thiếu tính đặc trưng”. Vướng mắc lớn nhất là việc sử dụng đất rừng để phát triển du lịch sinh thái.

Ông Nguyễn Sơn Hưng nhìn nhận: Đã có nhiều buôn được hỗ trợ đầu tư phát triển du lịch cộng đồng, nhưng kinh doanh chưa hiệu quả, lượng khách ít, các dịch vụ chưa phát triển. Nhiều buôn chỉ phát triển quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết và sản phẩm đặc trưng có chiều sâu; hạ tầng chưa đồng bộ, giao thông tới một số buôn còn khó khăn, dịch vụ lưu trú-ăn uống còn hạn chế…

Phục hồi rừng gắn với phát triển du lịch

Mới đây tại Đắk Lắk, Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới (Tropenbos Việt Nam) phối hợp với Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam và Trường đại học Đông Á tổ chức tọa đàm khoa học với chủ đề “Phục hồi rừng gắn với phát triển du lịch sinh thái cộng đồng cải thiện sinh kế đồng bào địa phương”.

Tại tọa đàm, các nhà quản lý, nhà khoa học đã phân tích chủ trương, định hướng của tỉnh và kinh nghiệm phát triển du lịch gắn với tài nguyên rừng. Ông Trần Hữu Nghị, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Nhiệt đới Việt Nam cho biết: Qua nghiên cứu và thực hành thí điểm mô hình nông lâm kết hợp tại huyện Lắk và Krông Bông giai đoạn 2019-2024 do Trung tâm thực hiện, tiềm năng phục hồi rừng, cải thiện sinh kế và bảo tồn đa dạng sinh học là rất lớn.

Bên cạnh đó, việc thực hiện dự án “Xây dựng mô hình nông lâm kết hợp và du lịch cộng đồng cải thiện sinh kế đồng bào dân tộc thiểu số xã Đắk Phơi” do Hội Khoa học Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam đảm nhiệm đã mang lại hiệu quả thiết thực. Nổi bật là việc nâng cao nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số về trồng xen các loại cây trong vườn cà-phê kết hợp phát triển du lịch cộng đồng để nâng cao thu nhập.

Tiến sĩ Trần Ngọc Thanh, Viện Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trường đại học Đông Á cho rằng, phục hồi rừng, phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng là con đường tất yếu, mang lại “lợi ích kép” giúp Đắk Lắk hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh và bền vững. Để tiềm năng trở thành hiện thực, tỉnh cần ưu tiên tháo gỡ “nút thắt” chính sách, nhất là sự chồng chéo giữa luật lâm nghiệp và phát triển du lịch, để tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thu hút nhà đầu tư chiến lược và giải phóng nguồn lực xã hội.

Các cơ quan chuyên môn và doanh nghiệp cần chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy kiến tạo và phục vụ. Cần tập trung xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù, có chiều sâu thay vì phát triển dàn trải; đồng thời hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nghiệp và cộng đồng trong chuyển đổi số. Cộng đồng địa phương cần phát huy vai trò chủ thể, chủ động liên kết thành hợp tác xã, tổ hợp tác du lịch để xây dựng sản phẩm chung, thương hiệu chung và nâng cao năng lực đàm phán với đối tác. Cần phát huy tối đa tính ưu việt, nhân văn các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để trở thành “cần câu” giúp người dân vươn lên làm giàu bền vững trên quê hương, gắn lợi ích kinh tế với sự trường tồn của những cánh rừng.

Xem thêm