1. Có thể căn cứ vào 4 đặc trưng cơ bản để phân biệt tộc người, đó là ngôn ngữ, trang phục, nghệ thuật diễn xướng và kiến trúc của nhóm các dân tộc thiểu số, có sự khác biệt với văn minh lúa nước ở miền đồng bằng.
Về ngôn ngữ: Ngoài tiếng phổ thông, 12 tộc người tại chỗ dẫu thuộc về hai ngữ hệ chung Nam Á và Nam Đảo, nhưng mỗi tộc người vẫn có tiếng nói, thậm chí là chữ viết riêng. Bên cạnh đó các dân tộc phía bắc cùng cộng cư thuộc hai ngữ hệ Miến -
Tạng, Mông - Dao cũng đã có sự khác biệt. Song hành cùng tiếng nói là văn học truyền miệng với những lời nói vần, sử thi, cổ tích, gia phả, thậm chí là luật tục cũng bằng văn vần.
Về trang phục: Là một bức tranh toàn cảnh, với mầu sắc hoa văn vô cùng đa dạng, mô phỏng thiên nhiên quanh con người. Dẫu kiểu cách riêng biệt mà vẫn mang tính đồng nhất; được làm nên bằng các nguyên liệu từ núi rừng và đôi tay tài hoa của những người phụ nữ.
Về nghệ thuật diễn xướng: Sự phong phú, độc đáo và khác biệt của văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên từ âm thanh, tiết điệu, màu âm của gong ching, của nhạc cụ tre nứa, dân ca, dân vũ… Các di sản văn hóa phi vật thể ấy, dầu là thể hiện qua thanh âm hay hình dạng, dẫu đơn giản, vẫn đều có sức cuốn hút đến lạ lùng.
Về kiến trúc: Hầu như các dân tộc thiểu số cư trú ở miền núi phía bắc hay Tây Nguyên, đều có tập quán ở nhà sàn. Những ngôi nhà “dài hơn một tiếng chiêng” hay nhà rông lừng lững thách thức với nắng gió, như “những lưỡi rìu khổng lồ tạc vào trời xanh”.
2. Để có thể đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật sáng tạo, chính là biết vận dụng một cách khéo léo chất liệu văn hóa riêng của mỗi vùng miền. Có thể thí dụ các tác phẩm văn học đậm chất vùng miền còn mãi với công chúng như tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” (Nguyên Ngọc), trường ca “Bài ca chim Chrao” (Thu Bồn)… Những ca khúc trường tồn theo thời gian như “Tình ca Tây Nguyên” (Hoàng Vân), “H’Zen lên rẫy”, “Ly cà-phê Ban Mê”, “Đôi mắt Pleiku”, “Tình ca Đăk Bla” (Nguyễn Cường)... Những tác phẩm ca kịch kinh điển lớn từ chất liệu nhạc dân gian Tây Nguyên như “Bên bờ Krông Pa” (Nhật Lai), “Người tạc tượng” (Đỗ Nhuận), “Những đứa con của núi” (Võ Cường)... Rất nhiều bức ảnh đạt giải quốc tế nguyên mẫu là con người, tập quán các dân tộc Tây Nguyên.
Văn nghệ sĩ các tỉnh Tây Nguyên đang bám sát chất liệu nghệ thuật dân gian vùng miền mình đang sinh sống để sáng tác. Các phong tục, tập quán, ngôn ngữ, hình ảnh con người và mảnh đất Tây Nguyên hiện lên rõ nét trong các tác phẩm văn học, tranh vẽ, ảnh chụp... Đề tài dân tộc được chuyển tải một cách sắc nét. Một số tác giả người dân tộc thiểu số như Kim Nhất, Niê Thanh Mai, H’Linh Niê, H’Siêu B.Yă, H’Xíu Hmok (Đắk Lắk), Hoàng Thanh Hương trong văn học; Siu Kết (nhiếp ảnh); Xu Man, A Nhú, Y Nhi Ksor… (mỹ thuật)… đã để lại dấu ấn khá rõ trong nghề nghiệp. Đặc biệt trong âm nhạc, các ca khúc của các tác giả người dân tộc bản địa, không ít bài xanh mãi với thời gian và phổ biến cả ngoài phạm vi địa phương như “Đêm thao thức”, “Tây Nguyên giải phóng” của Kpă Púi; “Đi tìm lời ru nữ thần mặt trời” của Y Phôn Ksor; “Giữ ấm bếp hồng”, “Ka Bing ơi” của Kra Zan Plin, hay các ca khúc của Kra Zan Đik, A Đủ… thấm đẫm chất liệu dân ca Jrai, Ê Đê, K’Ho, Ba Na. Bên cạnh đó là các vũ khúc “Chim ưng”, “Rông ching”, “Cô gái Ê Đê”, “Trống Tây Nguyên”… mạnh mẽ mà duyên dáng.
Còn rất nhiều các tác giả mọi miền quê đến sinh sống và hoạt động trên miền cao nguyên đất đỏ, cũng đã để lại dấu ấn rõ rệt của mình trong sự trưởng thành và ngày một phát triển của văn học nghệ thuật Tây Nguyên. Chính bản sắc văn hóa của vùng miền đã làm nên diện mạo khá riêng của mảnh đất này.
Những công trình kiến trúc hoành tráng như Bảo tàng cà-phê, Bảo tàng Đắk Lắk, Trung tâm văn hóa Gia Lai, nhà vòm ở khu du lịch Drei Sáp, các nhà thờ gỗ, các nhà thờ ở Lâm Đồng... đều từ chất liệu hay dáng vẻ nhà sàn, nhà rông dân gian mà được tạo hình thành điểm nhấn riêng...