Bốn “vòng tròn đồng tâm” thiết yếu của di sản
Nếu “hình học hóa” một cách tương đối thì một di sản “sống” được bao gồm bốn nhóm cộng đồng như những vòng tròn đồng tâm, lần lượt từ trong ra ngoài, gồm: Cộng đồng “lõi”-Cộng đồng bảo vệ/quản lý-Cộng đồng hỗ trợ-Cộng đồng quan tâm/chia sẻ/lan tỏa.
Trong đó, cộng đồng “lõi” là nhóm cộng đồng sinh sống, định cư trong vùng “lõi” với các di sản vật thể/thiên nhiên, hoặc là cộng đồng sở hữu/trực tiếp thực hành với các di sản phi vật thể. Đây là vòng cộng đồng quan trọng nhất vì họ trực tiếp “sống” cùng di sản. Cộng đồng bảo vệ gồm những người tham gia quản lý về mặt nhà nước từ cấp cơ sở cho đến cấp cao nhất, thi hành các chính sách, quy định trong quá trình bảo vệ/bảo tồn di sản. Cộng đồng hỗ trợ gồm những người/hệ thống sản xuất và dịch vụ cung cấp các điều kiện vật chất và tinh thần để “vận hành” di sản trong đời sống xã hội. Cộng đồng quan tâm/chia sẻ/lan tỏa gồm tất cả những ai muốn chiêm ngưỡng, thưởng lãm và giới thiệu hình ảnh, cảm xúc về di sản và giá trị của di sản. Cộng đồng này rộng lớn và không phụ thuộc giới hạn địa lý và thời gian.
Ranh giới giữa các vòng tròn này linh động và ở từng thời điểm cụ thể, những cá nhân trong các vòng đó có thể hoán đổi vai trò cho nhau. Các vòng tròn cộng đồng tương tác, hỗ trợ nhau bảo đảm cho di sản hiện diện liên tục và bền vững. Thêm vào đó, các vòng tròn cộng đồng này đều cần xác định mục đích của mọi hành động là hướng tới tâm điểm bảo vệ/bảo tồn và phát huy giá trị của di sản, ưu tiên nguyên tắc đồng thuận với cộng đồng “lõi”. Nhờ đó, di sản và sự đa dạng của văn hóa bản địa được bảo vệ và phát huy.
Dòng chảy tự nhiên của lịch sử di sản cần được bảo đảm
Có thể nhận thấy, sự phát triển các dịch vụ du lịch ở những di tích, di sản sau khi được “phong cấp”, nhất là ở các di sản thế giới được UNESCO công nhận, đã góp phần đáng kể thúc đẩy phát triển ngành du lịch, dịch vụ, tăng thêm việc làm thường xuyên và tạo thu nhập cho một lượng lớn lao động tại chỗ.
Sự “ăn nên làm ra” của du lịch lại tạo ra những tác động dây chuyền kích thích các dịch vụ kèm theo phát triển, làm cả nền kinh tế chuyển động nhanh, mạnh hơn. Các di tích, di sản văn hóa và thiên nhiên đã và đang thể hiện ngày càng rõ hơn vai trò là nguồn lực tài nguyên quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Song, để khai thác có hiệu quả và bền vững, để phát huy đồng thời bảo vệ/bảo tồn được giá trị của những tài nguyên đó, trong khi người dân vẫn sống trong/cùng di tích, di sản, còn nhiều điều cần nói.
Những thực hành di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng chủ nhân là nguồn hấp dẫn lớn với du khách tới để tìm hiểu, chiêm ngưỡng, thưởng thức. Tuy nhiên, đã có nhiều trường hợp “quảng bá”, “phát huy” di sản sai cách, đem cả phiên bản hình tượng thần thánh, phục trang, pháp khí “bày bán” như những đồ lưu niệm, chưa kể còn sẵn sàng diễn xướng, đưa vũ đạo thiêng ra “trình diễn” nơi công cộng như những hàng hóa (mang danh) văn hóa. Khi bị tách ra khỏi bối cảnh văn hóa tương ứng, di sản không còn là di sản nữa. Cách đây không lâu, việc trình diễn trang phục của thanh đồng trong một số giá đồng, “minh họa” bằng “trình diễn” một vài giá đồng trên sân khấu của một trường đại học nhân hội thảo về nghi lễ, tín ngưỡng hầu đồng là thí dụ điển hình của việc đưa “thực hành di sản” ra khỏi “không gian văn hóa” dưới khái niệm “diễn giải di sản”, “giới thiệu di sản”…
Để bảo tồn và phát huy giá trị, để gia tăng sức hút cho những di sản văn hóa phi vật thể với tư cách là “nguồn nuôi” hấp dẫn cho du lịch lễ hội, du lịch văn hóa, du lịch tâm linh, câu hỏi tưởng chừng muôn thuở là: Làm thế nào để chọn lọc, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần cổ truyền trong vòng xoay vần của kinh tế thị trường vốn luôn lấy lợi nhuận làm thước đo?
Tính đến nay, Việt Nam đã có chín Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới được UNESCO công nhận. Trong đó, vùng lõi của sáu di sản vẫn có người dân sinh sống: Vịnh Hạ Long- Quần đảo Cát Bà, Quần thể di tích Cố đô Huế, Đô thị cổ Hội An, Quần thể danh thắng Tràng An, Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng và Vườn quốc gia Hin Nam Nô, Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử-Vĩnh Nghiêm-Côn Sơn, Kiếp Bạc.
Khác với những di tích/di sản là các di chỉ khảo cổ, di (phế) tích kiến trúc..., vùng “lõi” của các di sản văn hóa, thiên nhiên có sự hiện diện của con người trong đó đang hàng ngày, hằng giờ, chịu tác động từ con người. Dù việc bảo tồn, phát huy, quảng bá giá trị di tích, di sản luôn được đề cao nhưng các khẩu hiệu này vẫn trong cuộc tranh chấp, vật lộn gay gắt giữa mục tiêu bảo tồn và phát triển. Sự phát triển dịch vụ xây dựng hạ tầng du lịch và bất động sản “ăn theo” di sản cũng đã và đang đặt ra vấn đề phải bảo vệ di sản nghiêm ngặt hơn nữa. Thực tế, chuyện lợi dụng danh tiếng, địa thế, cảnh quan thiên nhiên ở vùng liền kề với di tích, di sản nhằm tăng giá trị cho những dự án bất động sản, tăng doanh thu cho kinh doanh dịch vụ của nhiều doanh nghiệp tư nhân đã xảy ra ở Quảng Ninh, Ninh Bình… và chính quyền sở tại đã, đang phải nỗ lực để giải quyết.
Cộng đồng cư dân sinh sống nhiều đời và làm nên văn hóa của vùng đất quê hương họ trước khi khu vực đó nằm trong phạm vi cần bảo vệ/bảo tồn theo tiêu chuẩn đối với di sản quốc gia hoặc thế giới. Cộng đồng trong “lòng” di sản đã và đang góp phần tạo nên và bảo vệ bản sắc của di sản. Điều này đem lại sự hấp dẫn của di sản đối với không chỉ quảng bá du lịch mà còn thu hút các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa học, xã hội học tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu sâu hơn về di sản, đóng góp thêm vào sức sống của di sản trong tương lai. Vấn đề đặt ra trong đương đại là bảo đảm chia sẻ hài hòa, cùng có lợi, cùng phát triển khi bảo vệ/bảo tồn các di sản trong tiến trình tuân thủ các điều ước quốc tế và Luật Di sản văn hóa.
Với các di sản, những vùng đô thị, theo GS, TS, KTS Hoàng Đạo Kính: “Trong lĩnh vực bảo tồn, chúng ta cần bổ sung vào khái niệm phát triển cụm từ “phát triển trong sự tiếp nối”. Sự tiếp nối chính là cầu nối giữa bảo tồn và phát triển. Tiếp nối chính là sự bảo đảm dòng chảy tự nhiên của lịch sử di sản”.
Quan điểm phát triển tiếp nối xuất phát từ nhận thức coi di sản văn hóa là một loại tài nguyên, hơn nữa, di sản không phải là di tích, nó có tính “sống” và “động” và việc bảo vệ di sản không cản trở, mà là động lực cho phát triển.
Năm 2015, UNESCO đã thông qua Chính sách về việc lồng ghép quan điểm phát triển bền vững vào các quy trình của Công ước Di sản thế giới và đề nghị các quốc gia thành viên áp dụng vào quá trình quản lý các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của mình. Theo những khuyến nghị của chính sách này, chính quyền địa phương cần có những quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ tu bổ, tôn tạo, hỗ trợ cộng đồng sinh sống trong di sản. Bên cạnh đó, các nhà bảo tồn cần làm cho người dân có những hiểu biết về giá trị di sản của mình và quan trọng nhất, làm cho họ hiểu rõ việc bảo tồn di sản với tư cách một động lực phát triển kinh tế để nâng cao mức sống của chính mình.
Có thể nói, Di tích quốc gia đặc biệt Côn Sơn, Kiếp Bạc đã thực hiện hiệu quả định hướng của UNESCO từ trước khi trở thành Di sản thế giới liên vùng, trải dài trên địa bàn ba tỉnh/thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh. Được biết, từ năm 2017 đến năm 2023, để cảnh quan di tích văn minh, trật tự, an toàn hơn, chính quyền và Ban Quản lý đã từng bước quy hoạch và cùng cộng đồng xây dựng khu dịch vụ tập trung, đủ xa di tích nhưng đủ gần để thuận tiện cho dịch vụ, với sự đồng thuận, đóng góp trách nhiệm và giám sát chất lượng của cộng đồng. TS Lê Duy Mạnh, Phó trưởng Ban quản lý Di tích Côn Sơn, Kiếp Bạc cho biết: “Trong vùng “lõi” di sản, có gần 3.000 cư dân sinh sống ổn định. Họ tham gia vào những khâu dịch vụ chung quanh di tích. Họ là người trực tiếp, nhiệt thành thực hiện lễ hội truyền thống với sự tự hào. Họ còn giới thiệu những điều đặc sắc về vùng đất quê hương mình hỗ trợ cho du lịch. Cũng chính cộng đồng bản địa “lấp đầy” khu dịch vụ này. Họ tăng thu nhập và đóng góp cho ngân sách, cùng giữ gìn cảnh quan và tôn vinh di sản. Chúng tôi cũng đã có kế hoạch mở rộng sự tham gia, hỗ trợ của cộng đồng hơn nữa vì dự kiến lượng du khách trong thời gian tới sẽ gia tăng đáng kể”.
Các cộng đồng địa phương và chính quyền cần được kết nối trong mô hình đồng quản lý và hỗ trợ quản lý di sản thông qua việc tôn trọng các thiết chế truyền thống và cách thức sử dụng tài nguyên của cộng đồng. Cần cách tiếp cận dựa trên quyền với văn hóa bao gồm việc tôn trọng quyền thụ hưởng và tự do tham gia vào đời sống văn hóa mà không bị thương mại hóa”.
(Trích từ Chiến lược phát triển trung hạn, giai đoạn 2022-2029 của UNESCO)