Chung quanh chủ đề này, phóng viên Nhân Dân cuối tuần có cuộc trao đổi với bà Phạm Thị Thanh Hường, Trưởng ban Văn hóa, Văn phòng UNESCO tại Hà Nội.
- Thưa bà, việc vinh danh các khu vực địa lý là di sản thế giới (tự nhiên, văn hóa và hỗn hợp) đem lại nhiều cơ hội quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè thế giới, song mặt trái của “tấm huân chương” này bao gồm có thể là sự thương mại hóa quá mức trong thúc đẩy du lịch và hạ tầng cơ sở vật chất cho du lịch và thách thức trong bảo tồn di sản và bảo đảm quyền hưởng lợi của cộng đồng. Về khía cạnh này, bà có thể chia sẻ một số vấn đề chung nổi bật hơn cả đã và đang diễn ra tại các di sản thế giới ở Việt Nam?
- Hiệu ứng nhận diện thương hiệu di sản thế giới rõ ràng là một thực tế, và điều này mang lại cả cơ hội và rủi ro.
Cơ hội đã được nhiều nhà quản lý và học giả nhắc tới, như các khu di sản thế giới có vai trò là những tài sản công và nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Còn rủi ro là việc vận hành và quản lý lãng quên hoặc bỏ qua yêu cầu về bảo vệ giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản, khiến cho các hoạt động tham quan, du lịch tại khu di sản rơi vào tình trạng thương mại hóa quá mức, hoặc không bảo đảm các mục tiêu bảo tồn bền vững và quyền lợi của cộng đồng.
Có một số khu di sản thế giới ở Việt Nam được nhắc trong nhiều văn kiện và tại các diễn đàn của UNESCO như những thí dụ điển hình và thực hành tốt trong việc bảo tồn và đóng góp chuyên môn trong tu bổ các công trình di sản bằng gỗ và gạch ở châu Á, như Quần thể di tích Cố đô Huế và Khu đền tháp Mỹ Sơn. Gần đây, Tổng Giám đốc UNESCO Audrey Azoulay và nhiều chuyên gia từ Trung tâm Di sản thế giới nhắc tới ấn tượng về Quần thể danh thắng Tràng An, một thí dụ về tinh thần cầu thị và đối thoại trong việc thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban Di sản thế giới trong việc triển khai kịp thời đánh giá sức chịu tải và kế hoạch quản lý du lịch, điều chỉnh hoạt động diễn giải chính xác hơn về khu di sản. Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long Hà Nội được coi là một điển hình về sự hợp tác sát sao giữa Việt Nam, Trung tâm Di sản Thế giới và ICOMOS về từng đề án và tầm nhìn trục trung tâm, với mục đích hạn chế thấp nhất mọi can thiệp có nguy cơ làm ảnh hưởng tới giá trị nổi bật toàn cầu của di sản.
Trong khi đó, một số khu di sản khác lại liên tục nhận những cảnh báo và báo động về những tác động tiêu cực của các dự án và can thiệp thiếu đánh giá tác động di sản. Tại kỳ họp lần thứ 47 vừa qua tại Paris, với Quyết định 47COM 7B.16, Ủy ban Di sản thế giới đã nhấn mạnh sự lo ngại cao nhất về các dự án hạ tầng, lấn biển ở khu vực vùng đệm và khu vực tiếp giáp vùng đệm khu Di sản Vịnh Hạ Long-Quần đảo Cát Bà, nhắc lại yêu cầu cần phải thực hiện Đánh giá Chiến lược về Môi trường, đề nghị đình chỉ Dự án khu thương mại, dịch vụ, du lịch trung tâm Cát Bà cho tới khi hoàn tất đánh giá các tác động tiềm năng đối với giá trị nổi bật toàn cầu của khu di sản này.
Có một thực tế chung là tới nay việc đánh giá tác động tới di sản chưa được chú trọng đúng mức. Đây cũng là điểm mấu chốt được nhắc nhiều lần trong các cuộc thảo luận tại kỳ họp của Ủy ban Di sản thế giới lần thứ 47 vừa qua liên quan tới các khu di sản thế giới ở Việt Nam.
- Trong quan sát của bà và các chuyên gia của UNESCO, việc tham vấn trước và cung cấp đầy đủ thông tin tới các cộng đồng địa phương cũng như việc xem xét quan điểm của họ trong quá trình đề cử và quản lý các di sản thế giới được thực hiện như thế nào ở Việt Nam?
- Việt Nam có một số khu di sản có phạm vi khoanh vùng bảo vệ liên quan tới các nhóm dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời, như Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng và Quần thể di tích danh thắng Yên Tử. Các hồ sơ đề cử và báo cáo tình trạng bảo tồn gửi tới Trung tâm Di sản Thế giới thể hiện những bước tiến đáng kể trong việc tham vấn cộng đồng địa phương và lồng ghép quan điểm của cộng đồng sở tại vào quá trình đề cử và quản lý các di sản thế giới.
Điểm mới trong Luật Di sản văn hóa 2024 của Việt Nam là có sự ghi nhận và quy định tách bạch, rõ ràng giữa quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể văn hóa. Có thể nói, Việt Nam đã có nền tảng pháp lý đầy đủ, hiến định, luật hóa và ghi nhận rõ ràng quyền của các chủ thể văn hóa, gồm cả cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên, việc tư liệu hóa thể hiện quá trình này trên thực tế thường chưa rõ. Đó cũng là lý do mà các Báo cáo đánh giá của các cơ quan tư vấn chuyên môn (ICOMOS, IUCM) đều đi kèm với các khuyến nghị về việc cung cấp thông tin, làm rõ bối cảnh và sự tham gia thực chất của cộng đồng dân tộc thiểu số sở tại với khu di sản.

- Từ trải nghiệm cá nhân, bà có thể chia sẻ thêm cảm nghĩ về một khu vực di sản thế giới ở một quốc gia khác cho thấy rõ ràng rằng, ở đó, di sản gắn liền với sinh kế và bản sắc của người dân nên tạo cho họ động lực và trách nhiệm trong việc tham gia tích cực vào quá trình quản lý, bảo vệ và bảo tồn di sản?
- Trong số nhiều thực tiễn tốt được giới thiệu như những điển hình tham khảo cho các nhà quản lý, tôi nghĩ tới trường hợp khá gần gũi trong khu vực ASEAN là Khu đô thị lịch sử George Town, Malaysia, Di sản thế giới UNESCO năm 2008. Đây là một quần thể đô thị đa văn hóa, đa sắc tộc bậc nhất Đông Nam Á, với ba cộng đồng lớn nhất là người Hoa, người Ấn, và người Mã Lai.
Chính quyền bang Penang áp dụng mô hình “quản trị di sản cộng đồng”: Người dân địa phương đóng vai trò trung tâm trong việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể, từ kiến trúc nhà cổ đến lễ hội, nghệ thuật truyền thống và ẩm thực đặc trưng. Cách tiếp cận này được cụ thể hóa trong các chính sách về quản trị di sản cộng đồng và hỗ trợ tài chính, kỹ thuật thuộc Kế hoạch Khu vực Đặc biệt (Special Area Plan - SAP) dành cho Di sản thế giới George Town. Mục tiêu của kế hoạch là bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của George Town thông qua việc quản lý hiệu quả và sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương.
SAP đã huy động sự tham gia của cộng đồng để xây dựng những quy định rất chi tiết, như 24 hoạt động do cộng đồng liệt kê không được cấp phép trong vùng lõi của khu phố di sản, mà đưa vào quy hoạch riêng tại khu vực vùng ven. Đồng thời, chính quyền thực hiện chương trình “Heritage Traders of George Town” nhằm hỗ trợ các cửa hàng truyền thống trong phố cổ, nơi đã tồn tại qua nhiều thế hệ, như tiệm thuốc Bắc, tiệm may mặc, quán ăn gia truyền. Chủ nhân các ngôi nhà và cửa tiệm truyền thống cũng được hỗ trợ chi phí bảo tồn mặt tiền kiến trúc, trưng bày và tham gia các chương trình đào tạo. Bên cạnh hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho việc tu bổ các công trình kiến trúc cổ thuộc sở hữu tư nhân, chính quyền cũng khuyến khích các sáng kiến cộng đồng, như việc mở cửa các ngôi nhà di sản để tổ chức các hội thảo, trưng bày, tọa đàm chuyên đề, hợp tác làm không gian biểu diễn và các tour du lịch văn hóa do người dân địa phương hướng dẫn.
Một điểm đáng chú ý là mô hình tinh gọn của bộ máy Ban Quản lý Di sản Penang và George Town (GTWWHI), chỉ có khoảng 30 nhân sự với 5 phòng, ban chuyên môn. Thành công ở George Town cho thấy việc phát triển du lịch tại khu di sản thế giới không nhất thiết phải loại bỏ mọi quy định để tạo thuận lợi nhất cho du khách. Ngược lại, những hạn chế với việc đặt ưu tiên vào việc bảo tồn, ưu tiên quyền và lợi ích của cộng đồng địa phương sẽ nhận được hiệu ứng tích cực về lâu dài của cả cộng đồng và du khách, do giá trị về trải nghiệm chân thực tại khu di sản.
- Trân trọng cảm ơn bà!