Xây nền móng cho tương lai
Xây nền móng cho tương lai

Vươn lên chinh phục đỉnh cao

Là chuyên gia đã gắn bó nhiều năm với thể thao Việt Nam, ông Nguyễn Hồng Minh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Olympic Việt Nam, nguyên Trưởng đoàn Thể thao Việt Nam đã chia sẻ cùng Báo Nhân Dân những tâm tư, trăn trở về tiến trình phát triển thể thao nước nhà.

Sau 80 năm phát triển, thể thao Việt Nam đã đạt những thành tựu gì, t hưa ông?

Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng nền thể dục-thể thao ở tất cả các nước trên thế giới đều có hai chức năng, nhiệm vụ cơ bản. Đó là phát triển thể thao quần chúng, nhằm phát triển con người toàn diện, nâng cao sức khỏe toàn dân; và thể thao thành tích cao nhằm đào tạo vận động viên, nâng cao thành tích, mang lại vinh dự cho Tổ quốc.

Trong nhiều thời kỳ, thể dục-thể thao quần chúng được chú trọng phát triển, với các hội thi dành cho nhiều đối tượng. Chẳng hạn, học sinh có Hội khỏe Phù Đổng; sinh viên có Đại hội Thể dục-Thể thao sinh viên; quân đội có Đại hội Thể dục-Thể thao toàn quân... Hiện nay, phong trào thể thao quần chúng của ta đã đạt đến trình độ cao so các nước trong khu vực.

phan-5-thethao.jpg
Ông Nguyễn Hồng Minh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Olympic Việt Nam, nguyên Trưởng đoàn Thể thao Việt Nam

Thể thao thành tích cao phát triển chậm hơn một chút do bối cảnh lịch sử. Dù vậy, các vận động viên Việt Nam vẫn giành được nhiều kết quả xuất sắc, như Huy chương vàng châu Á đầu tiên của Trần Hữu Chỉ ở nội dung chạy 400m rào; Huy chương vàng nội dung 200m bơi ếch của kình ngư Vũ Thị Sen; hay kỷ lục thế giới môn bắn súng của xạ thủ Trần Oanh.

Sau giai đoạn có phần chững lại (từ năm 1968 đến năm 1980), chúng ta bắt đầu giai đoạn đào tạo vận động viên trẻ và tổ chức các cuộc thi đấu. Đại hội Thể dục-Thể thao toàn quốc tại Hà Nội năm 1985 được xem như dấu ấn lịch sử, cột mốc phát triển.

Qua thời kỳ hội nhập, như tham dự Olympic Moscow 1980, ASIAD New Delhi 1982 hay trở lại với SEA Games năm 1989, từ khoảng 300-400 vận động viên tranh tài ở 10 bộ môn, chúng ta đã phát triển lên tới 3.000 vận động viên cấp kiện tướng thi đấu ở gần 50 bộ môn. Hiện nay, thể thao Việt Nam đã có hàng nghìn vận động viên vô địch Đông Nam Á và SEA Games, hàng trăm vận động viên đạt thành tích cao ở châu lục và thế giới cũng như đoạt huy chương Olympic.

Việt Nam đã vươn lên đứng tốp đầu Đông Nam Á, giành thành tích tốt nhất ở ASIAD vào năm 2019 tại Indonesia với 5 Huy chương vàng. Ở đấu trường Olympic, chúng ta có Huy chương bạc taekwondo của Trần Hiếu Ngân, sau đó là những tấm huy chương cử tạ của Hoàng Anh Tuấn, Trần Lê Quốc Toàn rồi Thạch Kim Tuấn. Đặc biệt xuất sắc phải kể đến tấm Huy chương vàng và Huy chương bạc bắn súng của Hoàng Xuân Vinh ở Olympic Rio 2016.

Đây là thành quả của một tiến trình nỗ lực tích cực và bền bỉ, vượt qua nhiều khó khăn để đạt tới thành công.

Đâu là những nút thắt cản trở sự phát triển của thể thao Việt Nam trong những năm qua, thưa ông?

Khó khăn khách quan là trình độ của thể thao quốc tế phát triển rất nhanh. Trong khi đó, nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu.

Về chủ quan, Nghị quyết số 08- NQ/TW của Bộ Chính trị nêu rõ nhiều hạn chế trong phát triển thể dục-thể thao trong nước. Trong đó có sự lãnh đạo, chỉ đạo chưa đầy đủ, thậm chí có nơi còn coi nhẹ thể dục-thể thao; hệ thống tổ chức ngành chưa ổn định, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, khoa học -công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu; công tác quản lý nhà nước về thể dục-thể thao chậm đổi mới; tổ chức bộ máy của ngành bị thay đổi nhiều lần...

Bên cạnh đó, việc đầu tư cho thể thao thường chỉ ở mức tối thiểu. Tiến trình xã hội hóa, ứng dụng khoa học-kỹ thuật trong phát triển thể thao còn hạn chế. Hệ thống cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn.

Với những khó khăn trên, đâu là những cải cách mang tính bước ngoặt giúp thể thao Việt Nam đạt được những thành tựu như hôm nay?

Đánh giá lại toàn bộ tiến trình phát triển, thời kỳ chuyển biến mạnh nhất là từ năm 1990 đến 2015. Và chủ trương quan trọng nhất là sau năm 2000, chúng ta tổ chức Đại hội Thể thao Đông Nam Á tại Việt Nam. Để tổ chức SEA Games tốt trên sân nhà, chúng ta phải chuẩn bị lực lượng vận động viên, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và chuẩn bị đội ngũ tổ chức sự kiện.

Quan trọng hơn hết, đây là thời kỳ cải cách, làm quy hoạch phát triển thể thao thống nhất trên cả nước. Tất cả các tỉnh, thành phố đều làm thể thao theo quy hoạch chung. Bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ được đào tạo và ổn định. Chúng ta đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất và đào tạo được lực lượng vận động viên hùng mạnh. Đây cũng là thời kỳ đặt nền móng để định hướng phát triển thể dục-thể thao Việt Nam.

Theo ông, đâu là những giá trị cốt lõi định hướng sự phát triển của thể thao Việt Nam?

Thứ nhất, đó là giá trị từ nền tảng văn hóa, truyền thống thượng võ lâu đời, tinh thần cần cù lao động, ý chí kiên cường chống ngoại xâm và ý chí tự lực tự cường của dân tộc.

Thứ hai là tư tưởng và quan điểm phát triển thể dục-thể thao của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì sức khỏe toàn dân và cải tạo nòi giống. Các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển thể dục-thể thao được thể hiện trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc từ năm 1960 đến nay. Các nghị quyết, chỉ thị, chiến lược, quy hoạch, chương trình phát triển của quốc gia... là cơ sở, nền tảng định hướng cho sự phát triển nền thể dục-thể thao.

Thứ ba, khi thể thao Việt Nam hòa nhập phong trào Olympic, chúng ta tiếp nhận tư tưởng của phong trào Olympic quốc tế là giáo dục thông qua thể thao: Giáo dục về tinh thần, đạo đức, ý chí; nỗ lực vươn lên khả năng cao nhất của con người - "nhanh hơn, cao hơn, mạnh hơn"; thể thao vì hòa bình và hữu nghị.

Nhiều năm trên cương vị Trưởng đoàn Thể thao Việt Nam, ông có thể chia sẻ kỷ niệm bản thân về những khoảnh khắc đáng tự hào nhất của thể thao nước nhà?

Cảm xúc lớn lao nhất với tôi là thời điểm tổ chức SEA Games năm 2003 tại Việt Nam. Khi đó, tôi là Trưởng đoàn Thể thao Việt Nam, đứng đầu "đoàn quân" gần 1.000 người bước vào sân vận động trong tiếng hò reo vang dội và cờ đỏ sao vàng phủ kín các khán đài. Sau Đại hội, trong bữa cơm thân mật cùng Thủ tướng Phan Văn Khải, ông nói: "Phấn khởi quá, cảm động quá, vì từ khi giải phóng miền nam đến giờ, đây mới là một sự kiện để hiểu rõ hơn về tinh thần dân tộc".

Và tôi cũng không thể quên được cuộc đón tiếp Đội tuyển U23 Việt Nam trở về từ Thường Châu. Trên đường từ sân bay vào thành phố, chật cứng người dân háo hức hò reo. Hình ảnh ấy cũng cho thấy thể thao đã góp phần thúc đẩy tinh thần đoàn kết dân tộc.

Cuối cùng, tôi đã theo dõi những phát bắn cuối cùng của Hoàng Xuân Vinh để giành Huy chương vàng Olympic Rio 2016. Lúc bấy giờ là hơn 12 giờ đêm ở Việt Nam. Khoảnh khắc Vinh giơ cao Huy chương vàng, phía sau chị Nhung (nguyên huấn luyện viên trưởng Đội tuyển bắn súng quốc gia Nguyễn Thị Nhung) nhảy lên, khóc lớn. Rồi cờ Việt Nam được kéo lên. Đó là cảm xúc sau cả cuộc đời cùng anh em cố gắng phấn đấu để có được Huy chương vàng Olympic. Sự kiện ấy xác lập dấu mốc lịch sử của thể thao Việt Nam.

Cuối cùng, ông có thông điệp gì muốn gửi gắm tới các vận động viên, huấn luyện viên và những người làm thể thao trong kỷ nguyên mới?

Đất nước đang bước vào thời kỳ mới với những cải cách mạnh mẽ. Những người làm thể thao cần nghiên cứu kỹ để hiện thực hóa chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm: Chúng ta cần xây dựng một thế hệ trẻ Việt Nam khỏe mạnh, phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ, không chỉ để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn để đủ sức vươn lên chinh phục các đỉnh cao thể thao thế giới.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!