Sinh viên ngành Vật lý kỹ thuật thực hành với máy phún xạ tại phòng thí nghiệm Khoa học Vật liệu của Khoa Lý - Hóa, Trường đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. (Ảnh: Đại học Đà Nẵng)
Sinh viên ngành Vật lý kỹ thuật thực hành với máy phún xạ tại phòng thí nghiệm Khoa học Vật liệu của Khoa Lý - Hóa, Trường đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng. (Ảnh: Đại học Đà Nẵng)

Kỳ vọng đột phá phát triển giáo dục đại học

Giáo dục đại học Việt Nam đang khẳng định vị thế trong khu vực và trên thế giới, nay có cơ hội lớn để phát triển bứt phá nhưng cũng đứng trước không ít thách thức. Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn đã có những nhận định về thành tựu và chia sẻ thẳng thắn về những điểm nghẽn cũng như định hướng của giáo dục đại học.

Phóng viên: 80 năm nhìn lại, Thứ trưởng đánh giá thế nào về vị trí của giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân, và vai trò các cơ sở đào tạo bậc học này trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế-xã hội?

Thư trưởng Hoàng Minh Sơn: Giáo dục đại học đóng vai trò nòng cốt trong phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia. Khi các tập đoàn công nghệ nước ngoài đánh giá cơ hội đầu tư tại Việt Nam, điều họ quan tâm không chỉ là hạ tầng và chính sách, mà một trong những yếu tố quyết định là nguồn nhân lực công nghệ cao. Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ là nơi đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, mà còn đóng vai trò chủ lực trong mạng lưới cơ sở nghiên cứu, cung cấp các kết quả nghiên cứu là đầu vào cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Tại Việt Nam, các cơ sở giáo dục đại học đóng góp tới 50% tổng số cán bộ nghiên cứu và 75% cán bộ nghiên cứu có trình độ tiến sĩ của cả nước; khoảng 85% số công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế có uy tín.

Sức mạnh của hệ thống giáo dục đại học phản ánh rõ nét năng lực khoa học và công nghệ của một quốc gia. Không một quốc gia phát triển nào không có hệ thống giáo dục đại học mạnh, và ngược lại, không có một quốc gia nào có hệ thống giáo dục đại học mạnh lại kém phát triển. Vì vậy, đầu tư cho giáo dục đại học chính là đầu tư cho tương lai quốc gia - là chìa khóa để nâng cao năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển bền vững.

Phóng viên: Trong bối cảnh mới, nước ta có cơ hội lớn để thu hút đầu tư và phát triển các lĩnh vực công nghệ chiến lược, nhưng theo ông, thách thức mà chúng ta đang gặp phải, "điểm nghẽn" mà chúng ta phải khơi thông là gì?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Những lĩnh vực công nghệ ấy là vi mạch bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, công nghệ sinh học, năng lượng mới và vật liệu tiên tiến, cũng như các lĩnh vực ứng dụng những công nghệ đó.

Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, điểm nghẽn lớn nhất của Việt Nam hiện nay là sự thiếu hụt đội ngũ nhân lực khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán (STEM) có trình độ, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn công nghệ lớn. Đặc biệt, số nghiên cứu sinh được đào tạo ở các ngành STEM là nguồn nhân lực khoa học, công nghệ quan trọng nhất, nhưng hiện nay mỗi năm chưa tới 300 người tốt nghiệp, tính theo tỷ trọng quy mô đào tạo hay tỷ lệ trên dân số đều thấp hơn vài chục lần so các nước phát triển.

Nguyên nhân trực tiếp của sự thiếu hụt nguồn nhân lực khoa học - công nghệ chất lượng cao trước hết nằm ở năng lực của hệ thống giáo dục đại học còn có khoảng cách khá xa so các nước tiên tiến, cả về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và công nghệ phục vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ sinh viên trên giảng viên quá lớn, tỷ lệ giảng viên có trình độ đại học còn thấp, hệ thống phòng thí nghiệm thiếu thốn và lạc hậu, nhiều năm không được đầu tư là những yếu tố cản trở nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu. Trong vài năm qua, mức đầu tư cho lĩnh vực này vẫn còn quá thấp so yêu cầu phát triển, chi ngân sách cho giáo dục đại học chưa đến 0,1% GDP - thấp hơn kỳ vọng rất xa. Các ngành khoa học cơ bản và những ngành kỹ thuật, công nghệ chưa có chính sách hỗ trợ kịp thời, dẫn tới khó thu hút sinh viên giỏi theo học, nhất là ở trình độ tiến sĩ.

cho-doi-dot-pha-lon-trong-giao-duc-1.jpg
Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Hoàng Minh Sơn.

Phóng viên: Vậy theo Thứ trưởng, đâu là những bất cập chính trong cách phân bổ nguồn lực, và cần điều chỉnh ra sao để chính sách học phí, học bổng và đặt hàng đào tạo phát huy hiệu quả, đúng định hướng và bảo đảm công bằng?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Thực hiện chủ trương tự chủ tài chính, các cơ sở giáo dục đại học hoạt động hiệu quả nhất lại bị cắt giảm hỗ trợ từ ngân sách nhà nước nhiều nhất. Ngân sách chi đầu tư công được phân bổ theo các cơ quan chủ quản, chưa dựa trên các tiêu chí thống nhất, không bảo đảm bình đẳng và hiệu quả tối ưu trong toàn hệ thống. Trong khi đó cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo từ ngân sách nhà nước còn phức tạp, triển khai thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Chính sách học phí, học bổng và tín dụng sinh viên chưa đủ mạnh và đồng bộ để định hướng ngành nghề và hỗ trợ hiệu quả cho người học, nhất là đối với đối tượng yếu thế.

Để tháo gỡ những điểm nghẽn này, cần điều chỉnh chính sách đầu tư, tài trợ từ ngân sách cho giáo dục đại học theo nguyên tắc cạnh tranh dựa trên mục tiêu chất lượng và hiệu quả hoạt động, đồng thời bảo đảm quyền tự chủ cao nhất cho cơ sở giáo dục đại học trong sử dụng kinh phí. Phân bổ kinh phí đầu tư phải có trọng tâm, trọng điểm dựa trên các tiêu chí thống nhất, minh bạch trong toàn hệ thống; cơ sở nào hoạt động hiệu quả nhất, lĩnh vực nào mang lại hiệu quả lớn nhất cho quốc gia cần được đầu tư nhiều nhất. Cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo nên được thiết kế lại dựa trên kết quả đầu ra. Chính sách học phí cần được thiết kế đồng bộ với chính sách tín dụng ưu đãi và học bổng khuyến khích học tập, vừa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời mở rộng cơ hội học đại học cho mọi đối tượng và định hướng cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.

Phóng viên: Thời gian tới, đâu là những định hướng mang tính đột phá để phát triển giáo dục đại học Việt Nam một cách bền vững, hội nhập và hiệu quả hơn, thưa ông?

Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn: Cần sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan tới giáo dục đại học, mở đường cho xây dựng hệ thống quản trị đại học tiên tiến dựa trên tự chủ đại học toàn diện và thực chất, gắn kết đào tạo trình độ cao với nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, thúc đẩy hợp tác doanh nghiệp và hợp tác quốc tế, thu hút mọi nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học. Cải cách các cơ chế, chính sách về học phí, học bổng, tín dụng và cơ chế đầu tư công, đặt hàng đào tạo để tạo nên một hệ thống tài chính đại học hiệu quả, bền vững và công bằng. Song song với đó, cần phải tối ưu hóa hệ thống giáo dục đại học, cả trên tầm vĩ mô và tại cơ sở; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi cơ sở giáo dục đại học. Hoàn thiện và từng bước nâng chuẩn cơ sở giáo dục đại học để sắp xếp mạng lưới, giảm số đầu mối và loại bỏ các cơ sở hoạt động kém hiệu quả, kém chất lượng. Chuyển đổi số toàn diện và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tiên tiến trong quản lý nhà nước và trong mọi hoạt động giáo dục đại học, thúc đẩy học tập cá thể hóa và học tập suốt đời.

Cuối cùng, ba yếu tố chính sách pháp luật - nguồn lực đầu tư - quản trị đại học gắn với thực hiện ba mục tiêu chất lượng - hiệu quả - công bằng phải được xác lập như một cấu trúc toàn diện, tương hỗ và nhất quán. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể nói tới một nền giáo dục đại học thực sự là động lực của tăng trưởng, là trụ cột của quốc gia đổi mới sáng tạo.

Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!

Sau gần 40 năm đổi mới, số trường đại học của Việt Nam tăng lên bốn lần, số sinh viên chính quy tuyển mới hàng năm tăng lên hơn 30 lần. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên năm 2024 đạt 13,65%, tăng 2,5 lần so 2009. Giai đoạn 2009-2024, số công bố khoa học có chỉ mục Scopus tăng lên hơn 12 lần, đưa thứ hạng của Việt Nam từ 65 lên 45 thế giới. Trong báo cáo gần đây của Ngân hàng Thế giới, tỷ suất thu hồi đối với đầu tư cho giáo dục đại học ở Việt Nam ước đạt xấp xỉ 15%, khá cao so mức phổ biến trên thế giới.