Những người đặt nền móng
Cuối những năm 50 thế kỷ trước, dịch bại liệt bùng phát ở miền bắc, khiến khoảng 17 nghìn trẻ mắc bệnh, hàng trăm em tử vong và hàng nghìn trẻ khác bị di chứng. Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô (trước đây), sau một năm, Việt Nam đã giảm được tỷ lệ mắc bệnh. Sau đại dịch này, với tầm nhìn chiến lược, Bộ trưởng Y tế Phạm Ngọc Thạch đã chỉ đạo các nhà khoa học nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng bệnh. Cán bộ Việt Nam được gửi qua Liên Xô đào tạo để sản xuất vaccine trong nước, mở đầu cho thời kỳ chủ động công nghệ y tế.
Khi đó, Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên, Viện trưởng Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, đã phân loại và định lập được virus cúm và virus bại liệt, thành lập phòng thí nghiệm virus. Những thành quả khoa học của ông đã đặt nền móng cho Việt Nam sản xuất thành công vaccine Sabin phòng bại liệt.
Năm 1962, Việt Nam tự sản xuất được hai triệu liều vaccine bại liệt. Chỉ một năm sau, tỷ lệ mắc bệnh này tại miền bắc giảm từ khoảng 126/100 nghìn dân xuống 3/100 nghìn dân. Từ đó, suốt những năm 60-70, bệnh bại liệt không còn bùng phát thành dịch lớn. Đến năm 1985, vaccine nội địa chính thức được đưa vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng, đạt tỷ lệ bao phủ hơn 90% cho trẻ dưới 1 tuổi. Đây là nền tảng vững chắc giúp Việt Nam "thanh toán" bệnh bại liệt vào năm 2000.
Đồng hành với Giáo sư Hoàng Thủy Nguyên còn có Giáo sư Đặng Đức Trạch, nhà vi khuẩn học đặt nền móng cho miễn dịch học và y tế dự phòng hiện đại, tác giả của nhiều vaccine quan trọng: BCG phòng lao, thương hàn, tả, ho gà, bạch hầu, uốn ván. Hai nhà khoa học đã xây dựng hệ sinh thái vaccine đầu tiên của Việt Nam, từ đào tạo nhân lực đến nghiên cứu, sản xuất.
Một hành trình lịch sử
Nhớ về ký ức đầy tự hào, ông Dương Hữu Thái, Viện trưởng Vắc-xin và Sinh phẩm y tế (IVAC) chia sẻ: Năm 1978, sự ra đời của IVAC tại Nha Trang đánh dấu bước đi quan trọng của ngành vaccine nội địa. Sau gần 50 năm, IVAC đã khẳng định vai trò là một trong những đơn vị sản xuất vaccine trụ cột của đất nước.
Năm 1990, IVAC sản xuất thành công vaccine ba giá trị DPT hấp phụ với các thành phần đơn (uốn ván, bạch hầu, ho gà), tạo bước đột phá của ngành công nghiệp vaccine Việt Nam. Đến năm 1993, IVAC sản xuất thành công vaccine phối hợp DPT, tiếp đến là vaccine viêm gan B, sởi, BCG...
Không chỉ sản xuất vaccine được sử dụng trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng, IVAC còn được quốc tế công nhận năng lực sản xuất vaccine đạt chuẩn và UNICEF công nhận là nhà sản xuất vaccine chất lượng cao. Đặc biệt, sau khi phát triển thành công vaccine cúm theo công nghệ trứng gà có phôi, IVAC trở thành một trong 11 nhà sản xuất vaccine cúm của các nước đang phát triển. Đây còn là đơn vị đầu tiên được Bộ Y tế chứng nhận GMP-WHO trong lĩnh vực sản xuất vaccine ở Việt Nam.
Với hơn 250 triệu liều vaccine cung cấp cho Chương trình Tiêm chủng mở rộng, IVAC góp phần quan trọng vào việc giảm mạnh tỷ lệ tử vong và mắc các bệnh truyền nhiễm. Riêng năm 2024, IVAC cung cấp khoảng sáu triệu liều cho chương trình. Viện đang tiếp tục nghiên cứu và phát triển hàng loạt vaccine mới, sẵn sàng đưa vào thử nghiệm lâm sàng.
Theo ông Tạ Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Quản lý Dược, Bộ Y tế, tiếp nối IVAC, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vắc-xin và Sinh phẩm số 1 (VABIOTECH, ra đời năm 2000) cũng là một đơn vị chủ lực sản xuất vaccine tại Việt Nam. Công ty đã sản xuất thành công và thương mại hóa bốn loại vaccine quan trọng phòng chống viêm gan A, viêm gan B tái tổ hợp, viêm não Nhật Bản và vaccine tả uống.
Đáng chú ý, VABIOTECH đã phát triển thành công vaccine viêm não Nhật Bản trên tế bào Vero, thay thế công nghệ truyền thống sử dụng não chuột. Đây là bước tiến quan trọng, nhằm nâng cao an toàn và năng suất sản xuất. VABIOTECH trở thành nhà xuất khẩu vaccine viêm não Nhật Bản đầu tiên của Việt Nam. Các vaccine viêm gan A, viêm gan B và tả uống của VABIOTECH được sử dụng để vừa phục vụ chương trình Tiêm chủng mở rộng trong nước, vừa xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới.
Trong công tác nghiên cứu, công ty đã có hàng chục đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có 5 đề tài cấp Nhà nước, tiêu biểu như nghiên cứu vaccine HPV, dengue, cúm A/ H5N1 và sản phẩm sinh học điều trị Interleukin-2, góp phần tạo nền tảng cho sản phẩm mới và khẳng định năng lực khoa học-công nghệ nội địa.
“Góp phần làm nên tên tuổi ngành vaccine Việt Nam còn có Trung tâm POLYVAC, ra đời năm 1994. Áp dụng công nghệ Nhật Bản, POLYVAC nhanh chóng sản xuất hàng loạt vaccine virus chất lượng cao, đặc biệt là vaccine sởi, rubella và vaccine phối hợp sởi-rubella (MR), giúp Việt Nam trở thành quốc gia thứ tư ở châu Á sản xuất được vaccine này”, ông Tạ Mạnh Hùng chia sẻ.
Ngoài ra, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vắc-xin Pasteur Đà Lạt (DAVAC) hiện là đơn vị duy nhất sản xuất được vaccine thương hàn. Năm 2002, công ty sản xuất thành công vaccine Vi polysaccharide với công nghệ từ Mỹ, đưa vào Chương trình Tiêm chủng mở rộng từ năm 2003, rồi tiếp tục phát triển vaccine vi cộng hợp và vaccine ho gà vô bào theo công nghệ biến đổi gene.
Vươn cao vị thế Việt Nam trên bản đồ vaccine thế giới
Theo Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên, từ chỗ hoàn toàn phụ thuộc vào vaccine nước ngoài, đến nay, Việt Nam đã sản xuất được 11/12 loại vaccine cho Chương trình Tiêm chủng mở rộng, đáp ứng hơn 90% nhu cầu nội địa, cung cấp vaccine miễn phí cho hơn 1,2 triệu trẻ em mỗi năm. Nhờ đó, Việt Nam đã thanh toán được các bệnh truyền nhiễm như đậu mùa (từ năm 1979), bại liệt (từ năm 2000), uốn ván sơ sinh (từ năm 2005). Các bệnh sởi, viêm gan B giảm mạnh, giúp Việt Nam tiết kiệm hàng tỷ USD chi cho y tế và cứu sống hàng nghìn trẻ mỗi năm.
Với những bước đi vững chắc trong làm chủ công nghệ vaccine, năm 2015, Việt Nam được WHO trao chứng nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine (NRA) đạt tiêu chuẩn quốc tế, định danh là một trong gần 40 quốc gia hội đủ điều kiện xuất khẩu vaccine, bên cạnh nhiều cường quốc trong lĩnh vực này ở châu Á, như Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc. Đến năm 2021, hệ thống NRA của Việt Nam lại được WHO công nhận đạt cấp độ hoàn thiện 3, mức cao thứ hai trong hệ thống phân loại của tổ chức này.
"Đây là nền tảng pháp lý và kỹ thuật để vaccine "made in Vietnam" được đưa ra thị trường thế giới. Ngành vaccine đã sản xuất được các loại vaccine thế hệ mới như HPV, phế cầu, rota, cúm 4 týp, Covid-19 xịt mũi, dengue...; xuất khẩu vào các thị trường khó tính như châu Âu, Nhật Bản và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; đồng phát triển vaccine mRNA, vector virus, nano...", Thứ trưởng Đỗ Xuân Tuyên nhấn mạnh.
“Lịch sử ngành sản xuất vaccine ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 60 thế kỷ trước, trong bối cảnh đất nước chiến tranh với muôn vàn khó khăn. Để rồi hôm nay, Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu vaccine trong nước, mà còn xuất khẩu ra nước ngoài, khẳng định vị thế là một trong số ít quốc gia có khả năng sản xuất vaccine đạt chuẩn quốc tế”.
Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên
Nhìn lại con đường phát triển đầy tự hào của ngành vaccine Việt Nam, ông Đỗ Xuân Tuyên khẳng định: Thành công này là nhờ sự kết hợp của những yếu tố then chốt: Chính sách-Khoa học-Hợp tác quốc tế. Ngành vaccine được đầu tư bền bỉ trong thời gian dài, với những chiến lược, chương trình cụ thể. Nhiều nhà khoa học tên tuổi cùng các thế hệ đồng nghiệp đã biến khát vọng thành hiện thực. Hành trình hợp tác quốc tế giúp ngành vaccine nước nhà tiếp cận công nghệ tiên tiến nhưng vẫn giữ vững tính độc lập chuyên môn, trở thành biểu tượng của y tế tự chủ.
Hành trình từ chỗ phụ thuộc viện trợ đến tự sản xuất và xuất khẩu vaccine là minh chứng cho thấy Việt Nam không chỉ bảo vệ sức khỏe của người dân trong nước mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe nhân loại bằng trí tuệ, ý chí và lòng nhân ái.