Ảnh: THẾ ĐẠI
Ảnh: THẾ ĐẠI

Khát vọng và vị thế quốc gia năm 2045

Gần 40 năm sau đổi mới, Việt Nam đã chuyển hẳn sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với thể chế ngày càng được hoàn thiện.

Từng kỳ Đại hội ở thập niên thứ ba của thế kỷ XXI dần đi qua, chúng ta đã có đủ thời gian để nhìn nhận lại chặng đường đổi mới của đất nước nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh 1991, tiến tới hội nhập sâu rộng, tương thích với hầu hết các hiệp định kinh tế đa phương, song phương đã tham gia.

1Dẫu 40 năm qua, thực lực của nền kinh tế Việt Nam đã tăng lên mạnh mẽ, kinh tế vĩ mô tuy có thời điểm khó khăn nhưng về cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế khách quan ấy vẫn chưa được một số nước trên thế giới ghi nhận.

Thẳng thắn nhìn lại, bên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề cần được khắc phục. Do đặc thù là nền kinh tế chuyển đổi, nên trong một thời gian dài nước ta mới phát triển theo chiều rộng, chưa tham gia sâu vào các chuỗi sản xuất, cung ứng trên thế giới. Đặc biệt, cơ cấu kinh tế đất nước chuyển biến chậm trước các thay đổi rất nhanh của kinh tế thế giới và khu vực.

Dù đứng trước nhiều thử thách, Đảng và Nhà nước vẫn đưa ra những định hướng phát triển đầy tham vọng: Đến năm 2030, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao. Đây là những nhiệm vụ hết sức to lớn được nêu ra trong bối cảnh kinh tế quốc tế diễn biến có nhiều thay đổi theo hướng bất lợi cho Việt Nam. Trong khi đó, kinh tế trong nước chậm chuyển đổi mô hình nên công cuộc cải cách không đạt được tốc độ như mong muốn. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển, nhận thức của chúng ta về một số vấn đề trong phát triển mô hình kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra, nhất là nhận thức lý luận về sở hữu và các thành phần kinh tế, về vai trò của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

2Đứng ở góc độ phân tích kinh tế thế giới, có thể chia sự phát triển của kinh tế thế giới từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 thành hai thời kỳ chủ yếu như sau:

Thứ nhất, thời kỳ phát triển kinh tế theo ý thức hệ bắt đầu từ những năm 1945, 1946 với kế hoạch tái khôi phục nền kinh tế châu Âu và Nhật Bản. Ở thời kỳ này là sự cạnh tranh giữa hai mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa do Mỹ dẫn đầu và mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo. Đây là thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba hình thành và dần dần đóng vai trò chủ đạo trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Thứ hai, giai đoạn bắt đầu từ năm 1985. Để tạo ra được động lực tăng trưởng trong bối cảnh quan hệ kinh tế với Mỹ gặp nhiều rào cản, các quốc gia phát triển trên thế giới đã phải hướng tới một mô hình tăng trưởng mới của nền kinh tế toàn cầu là chuyển từ mô hình kinh tế hai khối sang mô hình kinh tế toàn cầu hóa, đa phương hóa.

Nhiều nhà khoa học về mô hình tăng trưởng kinh tế đã mơ về một “thế giới phẳng” và quan hệ kinh tế bắc-nam được xây dựng theo xu hướng đa phương hóa. Nhưng sang những năm đầu thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, nền kinh tế Mỹ lại một lần nữa rơi vào vòng xoáy bởi mất cân bằng thương mại và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vẫn chưa đủ là động lực để kinh tế Mỹ vượt qua được khó khăn.

Đặc biệt, khi Tổng thống thứ 47 nhậm chức, Mỹ chính thức thay đổi mô hình kinh tế đa phương thành kinh tế song phương với khẩu hiệu “Nước Mỹ trên hết” làm chủ đạo. Cùng với sự biến đổi của địa chính trị thế giới, thế giới đơn cực đang dần chuyển thành thế giới đa cực mà trọng tâm là sự hình thành của khối BRICS (nhóm các quốc gia có nền kinh tế mới nổi, gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi). Từ góc độ nghiên cứu, chúng ta có thể dự báo một kỷ nguyên mới với thế giới đa cực, quan hệ kinh tế song phương là chủ đạo trong những năm tới.

Trên cơ sở phân tích các điều kiện địa chính trị quốc tế và sự phát triển kinh tế trong nước, việc Việt Nam phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn 8%/năm và tăng trưởng hai con số trong vòng 15 năm tiếp theo là một thách thức rất lớn.

3Để đạt được các dấu mốc quan trọng trong dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước, từ tháng 7/2024 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm, chúng ta đã từng bước chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho công cuộc đổi mới lần hai của đất nước. Với các nghị quyết của Bộ Chính trị từ tháng 12/2024 đến nay, đất nước đã có sự chuyển mình mạnh mẽ. Đầu tiên là việc tinh giản bộ máy, giảm số lượng các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ và tinh giản bộ máy cấp tỉnh, xóa bỏ cấp huyện để mở rộng không gian kinh tế phát triển.

Để đạt được hai mục tiêu lịch sử đã đặt ra, Việt Nam cần tập trung vào một số việc trọng điểm cần phải được xác định và xử lý trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị nhằm triển khai nghị quyết Đại hội. Cụ thể như sau: Tiếp tục cải cách thể chế trên cơ sở giảm đầu mối các cơ quan và thực hiện chính quyền địa phương hai cấp. Xác định rõ nhiệm vụ của từng bộ, ngành và từng địa phương dựa trên lợi thế so sánh theo địa giới hành chính mới, trong đó có những tỉnh, vùng được ưu tiên để phát triển kinh tế với tốc độ cao nhưng cũng có những tỉnh lấy mục tiêu ổn định an ninh chính trị, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia làm trọng tâm.

Đảng, Quốc hội và Chính phủ phải xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các tổ chức, địa phương theo các mục tiêu đã nêu trên. Chỉ có như thế, các địa phương mới phát huy hết được thế mạnh của mình mà không sợ bị trung ương đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.

Về mô hình tăng trưởng, kiên trì nguyên tắc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, phải làm rõ mối quan hệ biện chứng của mô hình kinh tế vận hành theo các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường nhưng có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nhà nước tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường, có nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo dựng môi trường vĩ mô ổn định.

Đồng thời, Nhà nước cũng có vai trò là một chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường thông qua việc quản lý và điều hành doanh nghiệp nhà nước. Phải hài hòa giữa các khu vực kinh tế: Kinh tế nhà nước với doanh nghiệp nhà nước là các công cụ và lực lượng vật chất cần thiết giúp Nhà nước can thiệp vào thị trường, phù hợp với nguyên tắc vận hành của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân là một trong ba động lực quan trọng nhất để góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Cần tận dụng các thế mạnh của kinh tế tư nhân trong việc tạo dựng việc làm, thích ứng nhanh với các biến đổi của kinh tế quốc tế, định hướng dần tới việc tiếp cận các công nghệ mới và thực hiện đầy đủ chính sách an sinh xã hội. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục được thu hút để tận dụng lợi thế về công nghệ, thị trường nhưng với yêu cầu phải nội địa hóa theo lộ trình để hình thành các sản phẩm “Made in Vietnam”, chủ động phòng tránh các tranh chấp thương mại có thể xảy ra.

Xây dựng mô hình quốc gia xanh, trong đó trọng tâm là kinh tế xanh, môi trường sống xanh. Hiện đang là thời điểm có nhiều thuận lợi để Việt Nam có những đột phá mạnh mẽ về hình thành và sử dụng năng lượng mới, giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hydrocarbon. Tuy nhiên, đây cũng là những thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển bởi các nước phát triển không thực hiện chuyển giao mà bán công nghệ với giá thành rất cao, làm tăng chi phí khi thực hiện theo mục tiêu Net Zero.

Đề xuất nêu trên là những nét gợi mở để chúng ta bình tĩnh, tự tin, vững bước trên con đường thực hiện mục tiêu mà Đảng đã đề ra.