Người dân tỉnh Phú Thọ chăm sóc cây bưởi. (Ảnh: Báo Nhân Dân)
Người dân tỉnh Phú Thọ chăm sóc cây bưởi. (Ảnh: Báo Nhân Dân)

Thúc đẩy chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho người lao động

Bộ Nội vụ đề xuất nâng mức vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm đối với người lao động lên 200 triệu đồng; mức vay đối với cơ sở sản xuất-kinh doanh lên 10 tỷ đồng. Qua đó, góp phần thúc đẩy chính sách tạo việc làm, đơn giản thủ tục hành chính, giúp nhiều lao động tiếp cận chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn.

Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Việc làm về chính sách hỗ trợ tạo việc làm (sau đây gọi tắt là dự thảo Nghị định) đã được Bộ Nội vụ xây dựng và gửi Bộ Tư pháp thẩm định.

Nhiều nhóm lao động yếu thế được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi

Chia sẻ về kết quả đạt được chính sách hỗ trợ tạo việc làm thời gian qua, Bộ Nội vụ đánh giá, nhìn chung, các quy định về chính sách hỗ trợ tạo việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ và chặt chẽ, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật về việc làm. Từ đó, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện các chính sách cho vay giải quyết việc làm; chính sách việc làm công; hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động ở khu vực nông thôn, người lao động thanh niên và hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

81111-7749-6794.jpg
Nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Cơ Tu, Hòa Vang, thành phố Ðà Nẵng. (Ảnh: CÔNG VINH)

Tính đến ngày 31/7/2025, tổng dư nợ chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm đạt 125.817 tỷ đồng, chiếm 32% tổng dư nợ các chương trình tín dụng đang triển khai tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Trong đó, dư nợ từ Quỹ quốc gia về việc làm đạt 4.528 tỷ đồng, nguồn vốn Ngân hàng Chính sách xã hội huy động đạt 71.112 tỷ đồng và nguồn vốn của địa phương đã ủy thác cho vay qua Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 50.177 tỷ đồng.

Trong giai đoạn 2016-2020, cả nước hỗ trợ tạo, duy trì và mở rộng việc làm (tính riêng từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn huy động của Ngân hàng Chính sách xã hội) cho 728.939 lao động.

Năm 2021, doanh số cho vay đạt 10.044 tỷ đồng, góp phần hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho 308.410 người lao động.

Năm 2022, doanh số cho vay (từ tất cả các nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm) đạt 35.569 tỷ đồng, góp phần hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho 1,7 triệu lao động.

Tính riêng từ năm 2023 đến hết 6 tháng đầu năm 2025, doanh số cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm và nguồn huy động của Ngân hàng Chính sách xã hội đạt gần 70 nghìn tỷ đồng, góp phần hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho hơn 1,1 triệu lao động.

Thông qua nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm, nhiều lao động nông thôn, lao động nữ, lao động yếu thế đã được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho bản thân và cộng đồng. Cụ thể, tỷ lệ lao động nông thôn khoảng 90%, lao động nữ chiếm khoảng 55%, lao động là người dân tộc thiểu số khoảng 10%, lao động là người khuyết tật khoảng 4 đến 5%.

Giai đoạn 2016-2020, cả nước có hơn 5 triệu lao động nông thôn được đào tạo nghề các cấp (80% được hỗ trợ học nghề trình độ sơ cấp dưới 3 tháng); đưa được 627 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Còn trong giai đoạn 2021-2024, có hơn 500 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Tuy nhiên, Bộ Nội vụ cho biết, đã có những tồn tại, hạn chế và một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn triển khai chính sách. Vì vậy, việc xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Việc làm về chính sách hỗ trợ tạo việc làm là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Người lao động có thể vay tới 200 triệu đồng hỗ trợ tạo việc làm

Theo Bộ Nội vụ, quan điểm xây dựng Nghị định nhằm tạo điều kiện thuận lợi để mọi người lao động, trong đó có lao động không có quan hệ lao động, được tham gia và thụ hưởng các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.

Cùng với đó, kế thừa, phát triển những quy định hiện hành phù hợp đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, sửa đổi các quy định chưa phù hợp, bảo đảm tính khả thi, dài hạn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bổ sung những quy định mới phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế; đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính.

Tiếp đó, tăng cường phân cấp, phân quyền triệt để cho địa phương theo tinh thần “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” cũng như ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.

Dự thảo Nghị định gồm 7 chương 39 điều, với 13 nội dung được sửa đổi, hoàn thiện dưới đây.

Sửa đổi đối tượng áp dụng để phù hợp với Luật Việc làm và phạm vi điều chỉnh của Nghị định.

Nâng mức vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm đối với người lao động lên 200 triệu đồng; mức vay đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh lên 10 tỷ đồng. Đồng thời, bổ sung nguyên tắc đối với trường hợp cơ sở sản xuất, kinh doanh, người lao động vay vốn theo các dự án hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng khác nhau tại Ngân hàng Chính sách xã hội thì tổng dư nợ các dự án của cơ sở sản xuất-kinh doanh; người lao động không vượt quá mức vay tối đa nêu trên.

Nâng mức vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm đối với người lao động lên 200 triệu đồng; mức vay đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh lên 10 tỷ đồng.

Sửa đổi quy định về thời hạn vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm để phù hợp với thực tiễn cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội (bỏ quy định căn cứ vào chu kỳ sản xuất, kinh doanh để thỏa thuận với khách hàng vay vốn về thời hạn vay vốn cụ thể).

Sửa đổi lãi suất hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm đối với đối tượng nói chung bằng 125% lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định, bằng lãi suất cho vay đối với hộ mới thoát nghèo (trước đây là lãi suất vay vốn bằng lãi suất vay vốn đối với hộ cận nghèo theo quy định pháp luật về tín dụng đối với hộ cận nghèo) và lãi suất hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm đối với các đối tượng ưu đãi về lãi suất bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo (trước đây bằng 50% lãi suất cho vay đối với hộ cận nghèo).

Sửa đổi quy định về mức vay tối đa để phù hợp với quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bổ sung quy định về mức vay cụ thể đối với vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Sửa đổi quy định về thời hạn vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để phù hợp với quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020.

Sửa đổi lãi suất hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bằng 125% lãi suất vay vốn đối với hộ nghèo bằng lãi suất cho vay đối với hộ mới thoát nghèo, lãi suất đối với các đối tượng ưu đãi về lãi suất bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo theo từng thời kỳ do Thủ tướng Chính phủ quy định. Trước đây, lãi suất cho vay hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bằng lãi suất cho vay đối với hộ nghèo, áp dụng chung cho các đối tượng: người dân tộc thiểu số; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo hoặc hộ bị thu hồi đất nông nghiệp; thân nhân của người có công với cách mạng.

Nâng mức vay phải bảo đảm tiền vay đối với vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm và vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lên trên 200 triệu đồng để phù hợp với quy định về việc nâng mức vay của người lao động.

Sửa đổi, bổ sung các quy định về hồ sơ vay vốn; trình tự, thủ tục vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm và hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện thủ tục hành chính; tăng cường phân cấp, phân quyền.

Sửa đổi các quy định về xử lý nợ rủi ro vốn vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, vốn vay hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành về xử lý nợ rủi ro vốn vay.

Sửa đổi quy định về thông báo chương trình, dự án, hoạt động thực hiện chính sách việc làm công; quy định về đăng ký tham gia và lựa chọn người lao động tham gia việc làm công, chế độ đối với người lao động có quan hệ lao động tham gia việc làm công

Sửa đổi quy định về điều kiện hỗ trợ đào tạo nghề trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng đối với người lao động là thanh niên để bảo đảm phù hợp với các đối tượng hỗ trợ khác; sửa đổi quy định về kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề, kinh phí hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng bảo đảm phù hợp với Luật Việc làm năm 2025, Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đất đai.

Sửa đổi quy định về hiệu lực thi hành để bảo đảm phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành.

Ngoài ra, so với Nghị định số 61/2015/NĐ-CP, dự thảo Nghị định đề xuất bổ sung 13 nội dung đáng quan tâm khác.

Dự thảo Nghị định cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung các thủ tục: cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm; cho vay hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động ở khu vực nông thôn, người lao động là thanh niên; hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác các thông tin sẵn có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Qua đó, giảm bớt một số giấy tờ không cần thiết nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tiếp cận và hưởng các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.

Dự thảo Nghị định đề xuất phân cấp triệt để cho chính quyền địa phương trong việc thực hiện thủ tục hỗ trợ đào tạo nghề cho người lao động ở khu vực nông thôn, người lao động là thanh niên; hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giao Ngân hàng Chính sách xã hội địa phương thực hiện toàn bộ thủ tục thẩm định và phê duyệt hồ sơ vay vốn hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm; giao Ngân hàng Chính sách xã hội hướng dẫn về phương án sử dụng vốn vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì, mở rộng việc làm; giấy đề nghị vay vốn hỗ trợ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và xác nhận về tài khoản định danh điện tử mức độ 2 của người lao động.

Xem thêm