Người kiến tạo âm thanh
Mùa xuân năm 2014, trong quá trình làm phim Interstellar, đạo diễn Christopher Nolan đã đưa cho Hans Zimmer một mảnh giấy, trong đó có một câu chuyện ẩn dụ rất ngắn về tình cha con và không liên quan gì đến bộ phim. Nolan yêu cầu Zimmer viết một bản nhạc dựa trên những dòng chữ ngắn ngủi đó.
Và gần như chỉ sau một ngày, Hans đã cho Nolan nghe một bản nhạc ông gọi là “bản nhạc nhỏ mong manh”. “Ngay lập tức, tôi đã biết trái tim bộ phim nằm ở đâu”- người đạo diễn nổi tiếng nói. Với tiếng đàn organ làm chủ đạo, cùng những cảm xúc chân thực dành cho con trai và cả người cha quá cố của mình, Hans đã tạo nên một giai điệu thấm đẫm tình yêu, sự hy sinh cũng như nỗi trăn trở về thời gian. Bản nhạc đã trở thành linh hồn của Interstellar, và là một trong những bản nhạc phim được yêu thích nhất mọi thời đại.
Dù là một trong những biểu tượng vĩ đại về âm nhạc, trớ trêu thay, Hans từ chối việc học nhạc theo cách truyền thống. Thời niên thiếu tại Đức, ông bị đuổi khỏi nhiều trường học. Sự cứng nhắc của hệ thống giáo dục không phù hợp với tâm hồn tự do và khao khát thử nghiệm của Hans. Ông chia sẻ: “Tôi chưa bao giờ học lý thuyết âm nhạc… Tôi tự học bằng cách thử và sai. Tôi nghĩ rằng việc không biết quy tắc là điều tốt nhất. Nó cho phép tôi hoàn toàn tự do sáng tạo”.
Chính sự "vô kỷ luật" này đã mở ra cánh cửa cho những thử nghiệm táo bạo, tạo nên một “mã gen” riêng biệt mang tên Hans Zimmer mà không ai có thể sao chép. Ngay từ khi thật sự bước chân vào con đường âm nhạc chuyên nghiệp, ông bắt đầu kết hợp nhạc giao hưởng với công nghệ điện tử - vốn bị coi là “nhạc cụ của quỷ” đối với giới nhạc sĩ cổ điển. Vào thời điểm đó, ý tưởng này được coi là điên rồ, thậm chí là sự xúc phạm với nghệ thuật.
Nhưng, “mọi thứ dường như tồn tại ở một thế giới khác, thế thì tại sao chúng ta không tạo nên một thứ âm nhạc thật sự khác biệt?” - Hans nói. Âm nhạc của Hans luôn kết hợp tinh tế chất liệu cổ điển của đàn dây, khí nhạc bản địa của nhiều vùng văn hóa với kỹ thuật thu âm hiện đại, tạo ra những mảng âm thanh vừa mới lạ, vừa “kỳ quặc”, khai sinh ra một dòng nhạc “world music” phối hợp nhuần nhuyễn những nhạc cụ và âm nhạc của các dân tộc trên thế giới, nơi bối cảnh các câu chuyện diễn ra!
Năm 1988, khi những bản nhạc phim thường dùng dàn nhạc giao hưởng, ông táo bạo sử dụng một chiếc synthesizer cho tác phẩm kinh điển Rain Man. Những âm thanh điện tử có phần “cơ học” và “lạnh lẽo” mô phỏng một cách hoàn hảo thế giới nội tâm phức tạp, biệt lập của nhân vật chính. Hay trong The Lion King, ông mang đến sự kết hợp chưa từng có giữa dàn nhạc giao hưởng phương Tây với bộ gõ và những âm thanh đặc trưng của châu Phi. Bản nhạc phim mang đến cho Hans giải Oscar đầu tiên trong cuộc đời với Hạng mục Nhạc phim hay nhất. Cho tới Inception, ông đã liều lĩnh “bẻ cong” tiếng hát kinh điển của Edith Piaf, biến nó thành tiếng kèn đồng đầy ám ảnh, len lỏi vào tầng sâu nhất của tiềm thức.
Với Hans Zimmer, âm nhạc là một công trình kiến trúc. Ông không chỉ tạo ra những bản nhạc, mà trở thành một Tổng công trình sư dựng nên những thế giới - nơi mỗi nhạc cụ, mỗi âm thanh được sắp xếp và kết hợp một cách hoàn hảo.
Hiểu nguyên tắc, trước khi phá vỡ nguyên tắc
Dù được The Daily Telegraph xếp vào Top 100 các thiên tài sống, và được xem là một trong ba “cột trụ” âm nhạc vĩ đại nhất của Hollywood (bên cạnh hai cây “đại thụ” John Williams và James Horner), Hans luôn từ chối coi mình là một thiên tài.
Ngược lại với niềm khao khát tự do và sự chối bỏ khỏi những nguyên tắc, Zimmer vẫn tự rèn luyện một cách kỷ luật để nắm vững kỹ thuật, công việc mà đôi khi ông gọi vui là một “công nhân âm nhạc”. Ông coi trọng việc lao động nghệ thuật cần mẫn và tỉ mỉ, với kiến thức sâu sắc về văn hóa bản địa và sự đồng cảm với thế giới nội tâm của nhân vật.
Nolan từng nhận xét: “Zimmer đã tìm thấy một cách để thể hiện cảm xúc của nhân vật chính mà không cần đến lời nói”. Với chỉ những ý tưởng ban đầu, Hans Zimmer đã biến chúng thành một ngôn ngữ âm nhạc cụ thể và mạnh mẽ. Như một kiến trúc sư âm thanh cần mẫn, ông dành hàng giờ đồng hồ để nghiên cứu cấu trúc của các bản giao hưởng, tìm hiểu cách các nhạc cụ hoạt động và thử kết hợp chúng lại với nhau thành những âm thanh với kiến trúc đa tầng. “Nếu bạn muốn phá vỡ các quy tắc, trước tiên bạn phải thật sự hiểu chúng”- Hans Zimmer nói.
Ông luôn cho rằng: Sản xuất nhạc phim không phải là một công việc cá nhân mà là sự kết hợp của rất nhiều những mắt xích nhỏ, một cuộc đối thoại liên tục, sự thấu hiểu sâu sắc về câu chuyện, để làm ra một bản nhạc trở thành một phần không thể tách rời. Hans tin: “Nếu bạn có một ý tưởng và có những người tài năng chung quanh, bạn có thể biến nó thành hiện thực”. Với ông, tài năng và tâm huyết của những con người cùng chơi nhạc trong một phòng thu mới thật sự là yếu tố quyết định thành công của một dự án.
“Tôi không tin vào thiên tài”, ông nói. “Tôi tin vào các cộng sự!”.
Ông cũng luôn dành sự tôn trọng và hỗ trợ cao nhất cho các đồng nghiệp và các học trò. Ramin Djawadi từng kể rằng: “Zimmer không bao giờ nói cho bạn biết phải làm gì. Ông ấy chỉ đặt ra những câu hỏi. Ông ấy khuyến khích bạn tự tìm ra câu trả lời”. Ông cũng thành lập một xưởng sản xuất và hỗ trợ, khuyến khích nhiều nghệ sĩ trẻ, những người mà dưới sự hướng dẫn của Hans, sau này đều trở thành những nhà soạn nhạc nổi tiếng như Ramin Djawadi, Lorne Balfe, hay Steve Jablonsky... Với Hans, di sản lớn nhất không phải là các danh hiệu, mà là việc tạo ra một thế hệ những người làm nhạc mới.