Bà Phạm Chi Lan, một chuyên gia dành cả cuộc đời để góp sức xây dựng và cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam chia sẻ về những dấu mốc thăng trầm của hành trình định danh ấy.
Từng đảm nhiệm vị trí Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), thành viên Ban soạn thảo Luật Doanh nghiệp, xin bà chia sẻ về quá trình hình thành và phát triển của đội ngũ doanh nghiệp tư nhân Việt Nam?
Đại hội VI (1986) của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, với trọng tâm là đổi mới phát triển kinh tế. Ở thời điểm đó, nền kinh tế Việt Nam có 13.000 doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động ở hầu khắp các lĩnh vực thương mại nội địa, sản xuất và xuất nhập khẩu… Kinh tế tư nhân hầu như không được ghi nhận chính thức trong các báo cáo thống kê, dù trên thực tế, họ có tham gia và thậm chí là thành phần lớn nhất để đóng góp cho nông nghiệp: Sản xuất hàng nông, lâm sản. Ngoài ra, họ cũng là thành phần tiên phong ở một số lĩnh vực như hàng thủ công mỹ nghệ, nhu yếu phẩm ngoài tem phiếu Nhà nước… Họ góp phần cung cấp lương thực, thực phẩm, dịch vụ cho các thành phố lớn và các đô thị nhỏ.
Một trong những động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự xuất hiện và phát triển doanh nghiệp tư nhân chính là công cuộc Đổi mới. Việc giải phóng lao động và hàng hóa đã tạo ra nhu cầu phân phối lưu thông nông sản, thực phẩm và trực tiếp hình thành mạng lưới thương nghiệp giữa các địa phương vốn xưa nay “bế quan tỏa cảng”, cấm chợ ngăn sông. Rộng hơn nữa, các doanh nghiệp Nhà nước ở miền bắc đã “khăn gói” vào nam chủ động học hỏi kinh nghiệm kinh doanh, trao đổi buôn bán, xây dựng quan hệ với một số chủ doanh nghiệp hoặc những người cung cấp nhỏ, lâu năm, có hàng hóa trao đổi từ trước giải phóng.
Các doanh nghiệp Nhà nước bắt đầu bung ra làm kế hoạch hai, kế hoạch ba, từ đó tạo thị trường hàng hóa trao đổi, nơi các thương nhân nhỏ đóng vai trò là kênh phân phối mới và hiệu quả. Mặt khác, sau thống nhất đất nước, một số doanh nghiệp gia đình ở các thành phố lớn miền nam vẫn giữ được dây chuyền công nghệ sản xuất các mặt hàng truyền thống và các kênh phân phối riêng của mình. Từ đó, họ thúc đẩy những tiểu thương nhỏ lẻ bắt đầu tham gia thị trường.
Vạn sự khởi đầu nan, để tìm chỗ đứng cho mình trong nền kinh tế, đội ngũ doanh nghiệp tư nhân gặp phải những thử thách gì, thưa bà?
Đổi mới quan trọng nhất trong phát triển kinh tế phải là tìm được chỗ đứng cho doanh nghiệp tư nhân. Từ cuối năm 1986, Tổng Bí thư Trường Chinh đã “bật đèn xanh” cho Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) mở ra nhiều cuộc tranh luận làm tiền đề cho đổi mới trong lĩnh vực kinh tế. Song, chính thức phải từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, mọi thứ mới dần trở nên rõ ràng.
Trước hết vẫn là ở chính sách khuyến khích sản xuất. Có hàng hóa, mới có thị trường tiêu thụ, có phân phối lưu thông. Và các lãnh đạo chính là những người “xé rào” đầu tiên. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, các Bí thư Thành ủy Võ Trần Chí, Võ Văn Kiệt chính là những người đầu tiên tìm cách thu mua lúa gạo trực tiếp từ Đồng bằng sông Cửu Long đưa về cung cấp cho nhân dân. Vai trò điều tiết của nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu đã tạo ra một khoảng trống vô lý của thị trường và cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng đều rất thiệt thòi.
Giai đoạn khó khăn ngặt nghèo này, thật may mắn, đã được chấm dứt kịp thời và sửa sai nhờ chủ trương Đổi mới của Đảng và Nhà nước. Một tác động từ bên ngoài mà theo tôi rất quan trọng với những người làm chính sách kinh tế giai đoạn đó là sự trỗi dậy của bốn con rồng châu Á: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore và những nỗ lực giao lưu học hỏi của Việt Nam với bài học kinh nghiệm thành công của họ.
Từ năm 1982, chúng tôi đã tiếp xúc nhiều chuyên gia Hàn Quốc, Nhật Bản và tiếp nhận rất nhiều sách vở, tài liệu. Càng tìm hiểu, chúng tôi càng thấy nhiều nét tương đồng ở các quốc gia cùng trải qua chiến tranh, trải qua những khó khăn hậu chiến, cùng nhiều nét văn hóa Đông Á và càng nhìn thấy con đường phát triển của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam, tuy lúc đó còn rất chập chững, non trẻ.
Phải nói thêm rằng, sau chiến tranh, thu nhập bình quân đầu người của Hàn Quốc thậm chí còn thấp hơn Việt Nam, họ chỉ có chưa đến 60 USD, trong khi sau 1975, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 80 USD. Những bài học đó cho tôi niềm tin sâu sắc rằng, hãy để cho doanh nghiệp Việt Nam chủ động, hãy cho các chủ doanh nghiệp tư nhân được tham gia sân chơi lớn một cách bình đẳng, họ sẽ mang lại những giá trị lớn cho nền kinh tế và cho xã hội.

Trong suốt gần 40 năm đồng hành cùng doanh nghiệp, được biết, nhiều lần VCCI và cá nhân bà đã có tiếng nói quan trọng để hóa giải những thách thức của doanh nghiệp tư nhân. Bà có thể “giải mật” một vài trường hợp tiêu biểu?
Có lẽ, câu chuyện mà tôi nhớ nhất và cũng nhiều người đã biết là về giọt nước mắt của nữ doanh nhân Lưu Hải Thúy. Chị Thúy có nhà ở phố Hàng Bông, Hà Nội. Chị kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như chạm bạc, đồ gỗ, mây tre đan. Chị đặt xưởng ở Hà Nam (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) và thuê các thợ thủ công rất giỏi nghề ở đó sản xuất.
Câu chuyện xảy ra vào năm 1998, khi Thủ tướng Phan Văn Khải có một cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (khi đó vẫn chưa có Luật Doanh nghiệp), chị Thúy đã đứng lên, khóc nức nở, xin trình bày hoàn cảnh bế tắc của mình: Do trước đó, Chính phủ của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã ra lệnh đóng cửa rừng, cấm khai thác gỗ tự nhiên dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, chị không chứng minh được sản phẩm gỗ mỹ nghệ của mình có xuất xứ không phải là gỗ tự nhiên.
Lúc đó, cũng chưa có văn bản pháp quy quy định phân biệt gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng. Vì vậy toàn bộ sản phẩm của chị không được xuất xưởng. Tất nhiên là không giao được hàng cho khách đặt. Tất nhiên là không được trả tiền. Và tất nhiên là ngân hàng siết nợ. Trước đó, chị đã thế chấp căn nhà của tổ tiên ở mặt phố Hàng Bông cho ngân hàng để lấy vốn kinh doanh.
Chị Thúy tha thiết đề nghị Thủ tướng và các cơ quan chức năng xem xét lại trường hợp của mình và giải tỏa lệnh cấm cho các sản phẩm từ gỗ rừng trồng, phân biệt rõ ràng với gỗ tự nhiên để hàng hóa được xuất cảnh theo hợp đồng kinh tế đã ký với đối tác nước ngoài. Thủ tướng đã hứa sẽ xem xét và đề nghị các cơ quan chức năng tìm hướng giải quyết sớm.
Sau đó, chị Thúy đã đến phòng làm việc của tôi ở VCCI và câu chuyện giữa hai người phụ nữ thật sự là đẫm nước mắt. Chị kể: Trưa hôm đó, con trai của chị 17 tuổi khỏe mạnh, ngoan ngoãn, đẹp trai, học giỏi, mới đi học về, cậu bé tắm nước lạnh và bị đột quỵ, ra đi ngay tại nhà, trong vòng tay mẹ. Đúng lúc ngân hàng gọi điện tới đề nghị tiến hành phát mãi căn nhà chị thế chấp vì đã quá hạn trả nợ. Chị khóc lóc năn nỉ: Con tôi vừa mất, xin để tôi lo tang cho cháu xong đã. Nhưng người đại diện pháp luật tuyên bố: Nếu chị không đến ngay để làm thủ tục thì sẽ bị bắt và cưỡng chế thi hành.
Lần ấy, tôi đã phải dùng uy tín và quan hệ cá nhân với Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng đang nhận thế chấp nợ của chị Thúy để bảo đảm gia đình chị thật sự vừa có tang và Thủ tướng cũng đang đề nghị chúng tôi phối hợp giải quyết trường hợp này cho hợp tình, hợp lý. Cuối cùng, ngân hàng đồng ý giãn nợ cho chị Thúy. Sau đó, những văn bản pháp quy về việc phân loại gỗ tự nhiên và gỗ rừng trồng cũng được ban hành, gỡ cho rất nhiều doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu lâm sản khỏi cảnh “ngửa mặt kêu trời”.
Một câu chuyện nữa là của một doanh nghiệp in ấn bao bì ở Cần Thơ. Anh ấy “kêu trời” về sự khó khăn khi phải xin giấy phép in ấn bất kỳ một sản phẩm nào: “Chúng tôi chỉ in bao bì hàng hóa chứ có in sách báo, văn hóa phẩm, tài liệu gì đâu mà mỗi hợp đồng in ấn đều phải đi xin phép, suốt quá trình in, chúng tôi bị kiểm tra từng mẫu mã một, tất cả nguyên liệu thừa đều bị hủy vì sợ chúng tôi dùng giấy đó, mực đó in truyền đơn, tài liệu phản động. Khó khăn thế này, chắc tôi bỏ nghề quá!?”.
Sự thật là đã có thời chúng ta ấu trĩ đến như vậy! Vì vậy, tổ soạn thảo Luật Doanh nghiệp của chúng tôi đã cố gắng hết sức có thể để chuyển tải vào dự thảo tinh thần doanh nghiệp được phép kinh doanh những gì pháp luật không cấm. Theo đó, riêng với trường hợp các doanh nghiệp in ấn này, luật đã tách loại hình kinh doanh in bao bì khỏi khu vực in văn hóa phẩm, sách báo, các doanh nghiệp in ấn bao bì thật sự được “tháo vòng kim cô”.

Ngay cả khi chúng ta có được những doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh mẽ, vẫn có những nghi ngờ, quan ngại về sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản thân hữu. Họ thậm chí không tin Việt Nam có thể xây dựng các thương hiệu lớn ngang tầm châu lục và thế giới. Quan điểm của bà như thế nào?
Thật sự, ban đầu chính bản thân tôi cũng khá nghi ngờ. Nhưng sau một thời gian dài quan sát, so sánh và khảo sát các hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân từ nhiều khía cạnh khác nhau, tôi đã có những thay đổi trong suy nghĩ, đánh giá.
Ở Việt Nam, sản xuất công nghiệp hoàn toàn do Nhà nước quản lý. Các tổng công ty lớn, từ dầu khí đến sắt thép, dệt may, hóa chất, đều là các “nắm đấm thép” của kinh tế Nhà nước. Phần còn lại gần với thị trường hơn, như sản xuất ô-tô, xe máy, điện dân dụng, ti-vi, tủ lạnh, điện thoại,... hoàn toàn thuộc về các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) mà chúng ta đã trải thảm đón với vô vàn ưu đãi. Vì thế, xuất phát điểm của hầu hết doanh nghiệp tư nhân lớn hiện nay là từ bất động sản (trừ Trường Hải và Hòa Phát vì những đặc trưng riêng từ người sáng lập). Hơn thế nữa, phải thừa nhận, đất đai được giao vào tay họ tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn hẳn so với giao vào tay các doanh nghiệp Nhà nước. Cùng quỹ đất đó, những khu đô thị của họ có chất lượng xây dựng tốt hơn, hệ sinh thái trường học, bệnh viện, công viên, xe buýt, đường sá,... được hoàn chỉnh lên một trình độ văn minh đô thị mới, chất lượng sống của cư dân cao hơn, tất nhiên, kéo theo giá bất động sản tăng lên.
Tôi muốn nói riêng về Vingroup và việc họ khiến tôi thay đổi quan điểm về tập đoàn được cho là chỉ làm tốt việc “xây nhà để bán” này. Đó là, họ đã phát triển hệ thống siêu thị VinMart vào đúng thời điểm mà các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đổ bộ ồn ào, mạnh mẽ vào thị trường Việt Nam. Các đối thủ nặng ký này nhanh chóng chiếm lĩnh các kênh phân phối, đẩy lùi các nhà phân phối Việt Nam về khu vực chợ truyền thống vốn đang thoi thóp, đồng thời đẩy hàng hóa Việt Nam trong các siêu thị vào những vị trí khó tìm, khó thấy nhất. Việc VinMart ký hợp đồng với 225 nhãn hàng Việt Nam chất lượng cao, cam kết bày ở những vị trí thuận lợi nhất và không thu phí kệ hàng trong một năm đầu, đã tạo cho các nhà sản xuất mà hầu hết là các nhà vườn, nhà chăn nuôi chế biến nông sản, thực phẩm một đà sản xuất mới, một niềm tin và một lợi thế cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Đây chính là hành động của một doanh nghiệp xã hội, doanh nghiệp dân tộc. Sau khi tạo dựng được một tệp khách hàng lớn của riêng mình, doanh nghiệp này tiếp tục trở thành đối tác, cộng sinh với rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khác trong mọi lĩnh vực của xã hội, khẳng định xu hướng phát triển theo hình thức win-win.
Tôi nghĩ không ít doanh nghiệp tư nhân lớn của chúng ta đang bắt đầu và sẽ tiếp tục phát triển theo đường lối kinh doanh phụng sự xã hội như vậy. Đó mới là điều xã hội nên vui mừng và chia sẻ.
Tôi cũng hy vọng rằng, khi đã đủ lớn mạnh, đủ tiền tài, vốn liếng, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp lớn này sẽ quay trở lại đầu tư nghiên cứu khoa học, sản xuất công nghiệp nặng và tài trợ cho các hoạt động văn hóa-xã hội thật sự có chiều sâu, thiết thực với cộng đồng. Họ đã, đang và sẽ là trụ cột của nền kinh tế và là động lực để xã hội phát triển lành mạnh, văn minh hơn.
Một câu hỏi cuối, bà suy nghiệm thế nào về hạnh phúc, nhất là đối với các doanh nhân?
Có lẽ, xã hội vẫn chưa đủ công bằng với các doanh nhân, vẫn nhiều người “kỳ thị người giàu” và có cái nhìn thiếu thiện cảm, không chính xác về họ. Tôi nghĩ hạnh phúc là có thật. Với mỗi người, nó có khuôn mặt khác nhau. Với tôi, có thể là nhìn thấy Luật Doanh nghiệp mới ra đời, cởi mở, tiến bộ hơn Luật trước. Với cháu tôi, là một chuyến đi thiện nguyện chia sẻ sách vở, áo quần với bạn bè vùng cao, và bất ngờ khi biết mấy năm sau, điều này là một điểm cộng trong hồ sơ nhập học đại học.
Còn với những doanh nhân chân chính, những doanh nghiệp dân tộc, đó hoàn toàn có thể là chứng kiến một sản phẩm mới của người Việt ra mắt và chiếm lĩnh thị trường, một robot nói và hát tiếng Việt, một công trình khoa học giải mã gene người Việt do một nhà khoa học trẻ Việt Nam phát minh trong một phòng thí nghiệm ở Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh.
Đừng nghĩ doanh nhân chỉ vui khi tiền đổ về. Nếu chỉ vì tiền, rất nhiều người đã dừng lại, ra đi để bảo toàn tài sản. Khi họ còn đổ mồ hôi và chất xám để tạo công ăn việc làm cho hàng vạn, hàng triệu lao động, còn vui mừng vì một sản phẩm “Made in Việt Nam”, có nghĩa họ vẫn đang được nếm trải hạnh phúc!
Trân trọng cảm ơn bà!
Kinh tế tư nhân là một trong những chủ đề mà bà Phạm Chi Lan tâm huyết nhất. Bà luôn lên tiếng mạnh mẽ, thẳng thắn về những bất cập trong môi trường kinh doanh, cản trở sự phát triển cân bằng giữa các thành phần kinh tế.