Đi một chiều dài đất nước

Đi một chiều dài đất nước

Nhiều lần gặp Đại tá Nguyễn Quý (Nguyên Cục trưởng Kỹ thuật - Bộ Tư lệnh Công binh), tôi đều bày tỏ nhẽ ra ông nên in cuốn hồi ký của mình.

Từ thuở là cậu bé 12-13 tuổi chứng kiến Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trên Quảng trường Ba Đình lịch sử. Tới lúc là cậu thiếu niên trong tổ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh 60 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Đến người lính đánh đồi Him Lam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Ông là người góp sức trong những công trình tôn tạo, góp những hòn đá giữ Trường Sa và chỉ huy một trong những cây cọc đầu tiên dựng Nhà giàn DK1.

Ông, cũng như nhiều người con Việt Nam, đã đi cả một chiều dài 80 năm đất nước, cống hiến một cách lặng lẽ, nhưng sự lặng lẽ đó đã góp phần làm nên dáng hình xứ sở của hôm nay.

Tắm mình trong làn sóng đỏ Tháng Tám

Ông Quý vẫn bảo, thế hệ ông “là nô lệ, mình bị thằng Tây đàn áp, sỉ nhục, coi thường”, nên khao khát được vùng lên, giành độc lập đã có sẵn trong máu. Bố và chú ruột ông tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Năm 1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại, bố ông bị thực dân Pháp bắt, còn chú ruột ông sang Vân Nam (Trung Quốc), đổi tên thành Vương Minh Phương và tiếp tục hoạt động cách mạng.

Chúng tôi là những công dân trẻ của Hà Nội, sinh ra và lớn lên từ Hà Nội, cùng Hà Nội vui sướng ngất ngây hạnh phúc, vì được sống, được chứng kiến, được tắm mình trong làn sóng đỏ của tháng 8 lịch sử hào hùng năm ấy. Từ đó mình là một con người khác, không còn là một tên Annamite nô lệ nữa, mà là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Đại tá Nguyễn Quý (Nguyên Cục trưởng Kỹ thuật - Bộ Tư lệnh Công binh)

Tháng 8/1945, gia đình ông Quý nhận nhiệm vụ chuẩn bị cờ Việt Minh cho ngày Tổng khởi nghĩa. Ngày 19/8, cả gia đình ông đều vác theo nắm cơm, bình nước rồi đi theo đoàn người giành chính quyền khắp đường phố Hà Nội. Mấy ngày sau, ông Quý vinh dự được đứng trong đoàn người ở Quảng trường Ba Đình nghe Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập. “Người ta thấy tôi còn bé nên cho đứng vị trí tốt nhất, có mái che đỡ nắng”, ông kể lại.

Đấy là giờ phút, cậu bé 12 tuổi Nguyễn Hữu Quý biết rằng, mình sẽ trở thành một phần của tập thể đó, sẽ thành Việt Minh, bảo vệ đất nước mình. “Chúng tôi là những công dân trẻ của Hà Nội, sinh ra và lớn lên từ Hà Nội, cùng Hà Nội vui sướng ngất ngây hạnh phúc, vì được sống, được chứng kiến, được tắm mình trong làn sóng đỏ của tháng 8 lịch sử hào hùng năm ấy. Từ đó mình là một con người khác, không còn là một tên Annamite nô lệ nữa, mà là một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, ông Quý bồi hồi nhớ lại.

Ngày 26/12/1946, khi Hà Nội sục sôi trong 60 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thủ đô, Nguyễn Quý nhận quyết định trở thành Đội viên đại đội Quyết tử quân Quốc Đảm. “Trời ơi, thằng nhóc con như tôi mà được gọi là đồng chí”, ông Quý vẫn nhớ cái cảm xúc lâng lâng khi được anh cán bộ rút lá cờ đỏ sao vàng đóng dấu đại đội quàng vào cổ. Những cậu bé như Nguyễn Quý được các anh lớn gọi là Vệ út.

dai-ta-nguyen-quy.jpg
Đại tá Nguyễn Quý đã có 70 năm tuổi Đảng.

Đội Quyết tử của anh em Quảng-Quý nhận nhiệm vụ chốt chặn ở Ô Cầu Dền. Hôm đó, anh Quảng tiếp cận mục tiêu, lao bom ba càng thật mạnh vào xe tăng địch, đồng thời bật ngược về phía sau nhảy xuống sông. Còn Nguyễn Quý ném liền hai quả lựu đạn làm rối loạn địch rồi chạy theo đường xuyên các nhà phố Bạch Mai. Trận hôm đó, xe tăng địch bị phá hủy hoàn toàn, trên xe có 8-9 tên tử vong, còn lại bị thương. Sau chiến công, hai anh em được tặng thưởng Huy hiệu Bác Hồ và một chiếc khăn dạ đỏ Quyết tử quân. Đó cũng là lần hiếm hoi, những chiến sĩ ôm bom ba càng thành công hạ xe tăng mà không thương vong.

Năm 1948, ông Vương Minh Phương quyết định đưa gửi cháu lên Việt Bắc học. Năm 1955, ông Phương hy sinh khi đang trên đường sang Indonesia dự Hội nghị đoàn kết nhân dân Á - Phi.

“Tôi đi lên từ người lính”

Sau những năm tháng học tập, ông Quý tái ngũ, về đại đội 92, trung đoàn 77. Năm 1954, Trung đoàn 77 là đơn vị có chức năng tuyển tân binh, huấn luyện chính trị và quân sự để bổ sung cho các đại đoàn chủ lực. Sau sáu tháng huấn luyện, Trung đoàn 77 bắt đầu vào Chiến dịch Trần Đình - mật danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tiểu đoàn ông Quý có mật danh Đắc Tô. Cuộc thử sức đương đầu với bom đạn thật sự bắt đầu.

Mấy trăm cây số mải miết, thử thách đầu tiên của chàng trai 20 tuổi ở ngay trên tứ đại đỉnh đèo Pha Đin, khi quả bom nổ chậm phát nổ. “May không bị thương, chỉ bị sức ép tí thôi”, đồng đội phải dùng tay để đào bới đống đất cát lôi ông lên giữa trời mùa đông rét mướt.

Trận quyết chiến ông Quý nhớ nhất là trận đánh đồi Him Lam ngày 13/3/1954 cùng tiểu đoàn 428. Khi đó tiểu đội ông là đơn vị phối thuộc. Đó là trận mà ông cùng đồng đội chứng kiến người Anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai.

Anh Phan Đình Giót ném quả lựu đạn cuối cùng rồi vùng chạy lên, loạng choạng, nhưng vẫn ập cả thân mình vào lỗ châu mai quái ác. “Chỉ có giây lát thôi, đồng đội hiểu được ý định của anh, nên nhanh chóng chớp thời cơ, chứ chần chừ là qua đi, địch xả súng ác liệt hơn, thương vong sẽ nặng nề hơn".

Đại tá Nguyễn Quý (Nguyên Cục trưởng Kỹ thuật - Bộ Tư lệnh Công binh)

“Sau này nhiều người cứ hỏi tôi chuyện đó, người ta còn nghi ngờ việc đó không có thật, nhưng những người không đánh trận không hiểu cái thực tế lúc đó”, ông Quý bảo.

Anh Phan Đình Giót ném quả lựu đạn cuối cùng rồi vùng chạy lên, loạng choạng, nhưng vẫn ập cả thân mình vào lỗ châu mai quái ác. “Chỉ có giây lát thôi, đồng đội hiểu được ý định của anh, nên nhanh chóng chớp thời cơ, chứ chần chừ là qua đi, địch xả súng ác liệt hơn, thương vong sẽ nặng nề hơn”, ông Quý kể lại.

Trận địa không có ai hy sinh

Từ Điện Biên Phủ trở về, ông Qúyđđược cử đi học Đại học Bách khoa. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa ngành Máy xây dựng, Nguyễn Quý trở thành anh Thiếu úy của Xưởng Công binh X49 (thuộc Cục Công binh, tiền thân của Bộ Tư lệnh Công binh sau này).

Năm 1967, Trung đoàn 249 nhận lệnh làm nhiệm vụ bảo đảm vượt sông trên tuyến lửa Quảng Bình. Bộ Tư lệnh Công binh quyết định cử Đội sửa chữa lưu động đi tăng cường. Cuối tháng 12/1967, ông Quý theo Đội hành quân vào tuyến lửa.

Đội đóng quân tại Nông trường cao su Phú Quý, Quảng Bình. Từ tỉnh lộ 2 rẽ phải là một đường ô-tô chạy dài tít tắp xuyên sâu vào trong núi. Máy bay địch vẫn quần thảo bắn phá ngày đêm khu vực đó.

Ông Quý chọn xây dựng căn cứ ở một nơi gần đường quốc lộ. Các hầm được dựng theo hình chữ A và bố trí vị trí theo hình chữ U phân tán nhưng liên hoàn. Nếu xảy ra bắn phá thì các hầm có thể ứng cứu hỗ trợ nhau kịp thời.

“Nơi nguy hiểm nhất lại là nơi an toàn nhất”, địch không thể ngờ chỉ cách quốc lộ 100m lại có căn cứ của Việt cộng. Điều tự hào nhất của ông Quý là suốt hai năm bị đánh phá liên tục nhưng đơn vị không có người nào hy sinh. Thiết kế khu vực đóng quân của đội trong vùng trọng điểm đánh phá ác liệt mà vẫn bảo đảm an toàn của ông thậm chí được tham gia triển lãm toàn quân.

Người đánh số trên thềm lục địa

Dấu ấn của người lính Nguyễn Quý sau hòa bình, là công trình cụm kinh tế-khoa học-dịch vụ DK1 trên thềm lục địa phía nam.

Đại tá Nguyễn Quý là Trưởng ban Xây dựng công trình DK1 (Ban DK1) giai đoạn 1990-1996. Giải thích cho các ký hiệu 1/1 đến 1/21 ở các nhà giàn, ông Quý nói để tiện đánh dấu các thiết bị vật tư khi chuyển. Các con số đánh theo thứ tự xây dựng. Chúng ta có nhà giàn từ 1-21 như ngày nay, chỉ trừ con số 13.

img-7345-original.jpg
Đại tá Nguyễn Quý (thứ 5 từ trái sang) và những người thực hiện công trình phần trên của nhà dàn DK1. (Ảnh: NVCC)

5 năm xây 10 nhà giàn, ông Quý tham gia đủ 10 lễ thượng cờ, chứng kiến lá cờ Tổ quốc được kéo lên trên thềm lục địa. Mỗi nhà giàn là một câu chuyện riêng, một trận chiến riêng. “Không phải không có thất bại đâu, tôi không ngại thừa nhận điều đó”, ông Quý thẳng thắn.

Ông Quý nói rằng, có rất nhiều lần, ông quyết định liều. Liều lĩnh mà vượt qua đèo Pha Đin khi quả bom nổ chậm lơ lửng sườn dốc, liều lĩnh chọn dựng căn cứ ngay gần đường quốc lộ, liều lĩnh nhận xây dựng nhà giàn khi thế giới chưa từng có tiền lệ. Nhưng đó là cái liều của một người lăn mình trong thực tế: “Mình nhận làm, vì mình phải trách nhiệm với Tổ quốc, với nhân dân, với đồng đội của mình”.

Người lính được giao nhiệm vụ thì phải hoàn thành.

(Đại tá Nguyễn Quý)

Trong câu chuyện với chúng tôi, ông không kể các chức danh, không phải là người chỉ huy nào cả: “Tôi gặp, đã từng chứng kiến những người có cống hiến to lớn hơn tôi, nhưng họ vẫn thầm lặng không hề đòi hỏi bất cứ chút đãi ngộ nào. Tôi muốn noi gương họ”. Cũng bởi vậy, tôi không hỏi ông thêm về những huân huy chương hay bằng khen.

Đơn giản, đó là câu chuyện của một người lính. Một người lính đã đi đủ qua những năm tháng rất dài, có mặt trong hầu hết các dấu mốc đấu tranh và dựng xây đất nước.

“Người lính được giao nhiệm vụ thì phải hoàn thành”, ông Quý nói vậy.

chan-trang-4.jpg