Nạn thiếu gạo xảy ra ở vùng mỏ vào những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Thời kỳ này, cả nước đều thiếu lương thực, nhưng Quảng Ninh là tỉnh công nghiệp với hàng vạn thợ mỏ ăn gạo sổ nên tác động do “cơn bão Giá - Lương - Tiền” càng khốc liệt hơn các địa phương khác. Không chỉ thiếu gạo, thợ mỏ còn thiếu thực phẩm, thiếu hàng công nghệ phẩm theo tiêu chuẩn tem phiếu, thiếu cả tiền mặt để trả lương, bảo hiểm xã hội. Thợ mỏ đã vượt qua nạn thiếu gạo và đưa “vàng đen” lên những chuyến tàu vươn khơi xuất khẩu như thế nào?
“Khai thế đủ rồi! Trung ương biết hết rồi”
Thời bao cấp, dù ở đâu mất mùa, thiếu đói, công nhân mỏ ít khi phải thiếu gạo. Riêng thợ hầm lò, một tháng 24 kg gạo, ngoài ra còn chế độ bồi dưỡng ăn ca, sao mà đói được! Vậy mà, chỉ vài năm sau, tức là đầu thời kỳ đổi mới đất nước, công nhân vùng mỏ lâm vào cảnh thiếu đói gay gắt.
Thời ấy, tôi mới cưới vợ. Vợ tôi làm việc ở Hà Nội nhưng muốn theo tôi về Quảng Ninh để hợp lý hóa gia đình. Ông Trương Muông, khi ấy là Giám đốc Xí nghiệp Xây lắp Cẩm Phả (nay thuộc Công ty than Dương Huy) thương hoàn cảnh của tôi, đã ra quyết định tiếp nhận vợ tôi vào xí nghiệp làm việc. Tôi hí hửng cầm quyết định đi làm thủ tục chuyển công tác thì gặp một khó khăn không cách gì gỡ được, đó là thiếu sổ gạo. Không có sổ gạo, tức sổ mua lương thực, thì sống sao đây? Mà muốn có sổ gạo thì Ty Lao động phải duyệt, cấp cho chỉ tiêu biên chế. Căn cứ vào đó, Ty Lương thực mới cấp sổ gạo. Chỉ mỗi cái sổ gạo, tôi đã đi lại rất nhiều, đã nhờ vả nhiều người nhưng không giải quyết được, đành chấp nhận cảnh vợ chồng đôi chốn đôi nơi.
Sổ gạo và gạo lúc này là mối lo bao trùm vùng mỏ. Báo cáo của Tỉnh ủy Quảng Ninh ngày 29/10/1987 về tình hình thiếu lương thực, cho biết: Đến cuối tháng 10 năm 1987, ở Công ty than Cẩm Phả (nay thuộc các công ty của Tập đoàn TKV trên địa bàn Cẩm Phả như Cọc Sáu, Cao Sơn, Đèo Nai, Thống Nhất...) có tới 30% công nhân phải ăn cháo một bữa, còn một bữa dựa vào bữa ăn công nghiệp ở nơi làm việc. Xí nghiệp Tuyển than Cửa Ông có 54 gia đình công nhân phải ăn cháo hai bữa; Xí nghiệp vận tải Cẩm Phả (xí nghiệp này sau đó tổ chức lại) có 39 gia đình ăn cháo hai bữa...
Ông Lê Hữu Quân, khi đó là Giám đốc Công ty than Uông Bí (thời ấy Công ty than Uông Bí bao gồm các đơn vị của ngành than thuộc miền tây Quảng Ninh như Uông Bí, Vàng Danh, Mạo Khê...) kể trong bài viết đã in sách, rằng: Tại một cuộc họp bàn về vấn đề nâng cao đời sống công nhân mỏ, do ông Tố Hữu, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chủ trì (chức danh này nay là Phó Thủ tướng), ông Quân mang nắm gạo mốc từ mỏ than Vàng Danh lên, đặt lên bàn nghị sự. Trước mặt ông Tố Hữu và các ông Bộ trưởng Lương thực, Bộ Mỏ và Than, Chủ tịch tỉnh Quảng Ninh..., ông Quân nói nỗi cực khổ của công nhân mỏ hiện tại khiến ông Tố Hữu ngăn lại: “Thôi, thôi, khai thế đủ rồi. Trung ương biết hết rồi. Bây giờ bàn cách giải quyết. Các đồng chí có ý kiến gì để cải thiện tình hình này?”.
Tôi nhớ, dịp đó, sau trận bão càn quét vào miền trung, ông Đoàn Văn Kiển, Giám đốc Xí nghiệp Xây lắp mỏ Mông Dương quyết định trợ cấp cho những công nhân, cán bộ là người Nghệ An mỗi người mấy chục cân gạo và cho một chuyến xe tải chở gạo chạy thâu đêm về Nghệ An để cứu đói. Người dẫn đầu chuyến xe chở gạo là ông Chu Văn Viễn, khi đó là Quản đốc Phân xưởng đào lò xây dựng mỏ Khe Chàm (sau này, ông Viễn là Giám đốc Công ty than Dương Huy). Xe đến nhà ông Viễn (huyện Quỳnh Lưu trước kia của Nghệ An) chừng 2 giờ sáng. Làng quê sau cơn bão xác xơ. Trong chúng tôi ai cũng sốt ruột, mau mau cấp tốc chuyển gạo về. Đường về quê tôi bị lũ tàn phá, ô-tô không đi được, tôi đành phải ngồi ở ga Chợ Si canh mấy hòm đựng gạo cho đến sáng. Khi gạo được chuyển về nhà, hàng xóm kéo đến, gương mặt mẹ tôi hân hoan, hãnh diện như đón mấy kiện hàng tôi vừa mang từ nước ngoài về.
Những hòn than cứu đói
Sau đó không lâu, thợ mỏ ngành than được sống trong no đủ, được ăn gạo ngon nhưng không hiểu gạo ở đâu ra. Trong khi các vùng quê đều thiếu đói, khắp nơi ăn cơm độn mì, độn mạch.
Trước thực trạng đó, lãnh đạo Bộ Mỏ và Than đã có một quyết định táo bạo. Đó là xin Chính phủ cho làm “Kế hoạch 3”, tức là làm thêm “than nhặt” để xuất khẩu lấy ngoại tệ mua thêm gạo, thịt, nhu yếu phẩm cho thợ mỏ.
Báo chí và nhiều tài liệu đã nói về “than nhặt”, tức là tận thu than tại các bãi thải mỏ. Có thể khẳng định, thời kỳ “than nhặt” diễn ra ngắn nhưng đó là giai đoạn quan trọng trong lịch sử phát triển ngành than, gắn với tên tuổi của Quyền Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than Trần Anh Vinh - người quyết định tổ chức, chỉ đạo phong trào “than nhặt” và Vụ Kế hoạch của Bộ, do ông Nguyễn Đình Thừa làm Vụ trưởng - cơ quan tham mưu đề xuất “phong trào” (sau này ông Nguyễn Đình Thừa là Chủ tịch Công đoàn Năng lượng Việt Nam).
Phong trào “than nhặt” được thực hiện khi cả nước bước vào công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước xóa bao cấp, các doanh nghiệp gặp khó khăn gay gắt do thiếu vốn sản xuất, thiếu việc làm, đời sống cán bộ công nhân sa sút nghiêm trọng. Là “tư lệnh” của ngành than, Quyền Bộ trưởng Trần Anh Vinh thời điểm đó đã cùng các đồng chí thứ trưởng, vụ trưởng, giám đốc các mỏ tìm biện pháp giải quyết nạn thiếu lương thực nghiêm trọng, đồng thời nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân ngành than. Thực hiện chỉ đạo của Quyền Bộ trưởng Trần Anh Vinh, Vụ Kế hoạch khảo sát thực địa và phát hiện trên các bãi thải mỏ có một số lượng than cục các cỡ lẫn vào đất đá thải do công nghệ khai thác ở các mỏ không thể tận thu hết được. Nếu huy động lực lượng để nhặt tay thì sẽ thu hồi một lượng than nhất định, có thể tiêu thụ trong nước hoặc xuất khẩu. Từ đó sẽ có một nguồn tiền để mua, hoặc đổi gạo và các nhu yếu phẩm cải thiện đời sống thợ mỏ, đồng thời tiết kiệm nguồn tài nguyên của đất nước.
Ý kiến đề xuất của Vụ Kế hoạch được chấp nhận ngay và cho triển khai. Phong trào “than nhặt” nhanh chóng lan tỏa rộng khắp trong toàn ngành, từ cơ quan bộ, các viện nghiên cứu, các trường đào tạo nghề, các mỏ, đã thu được kết quả to lớn, thiết thực, đời sống của cán bộ công nhân viên chức ngành than được cải thiện rõ rệt.
Ban đầu, “than nhặt” dùng để đổi gạo cho các tỉnh phía nam và xuất khẩu để nhập khẩu gạo, mì chính, đường... cung cấp cho thợ mỏ. Sau đó, “than nhặt” xuất khẩu lấy ngoại tệ để nhập hàng gia dụng, phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho thợ mỏ, chủ yếu là ti-vi, quạt điện... “Than nhặt” không chỉ xuất khẩu mà còn được đổi cho Nhà máy Phân đạm Hà Bắc theo mức ba kg than cục xô loại tốt ăn một kg phân đạm và từ một kg đạm đổi lấy một kg gạo.
Phong trào “than nhặt” chỉ là giải pháp tình thế, sáng tạo để giải cứu nạn thiếu gạo của thợ mỏ. Phong trào này cũng để lại nhiều hạn chế nên chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, từ “than nhặt”, thợ mỏ ngành than đã đúc rút nhiều kinh nghiệm trong xuất khẩu than.
Từ tháng 11/1989, chuyến tàu mang tên Phượng Hoàng (Phoenix) đã được ký kết bởi Công ty Xuất nhập khẩu than và Cung ứng vật tư (Việt Nam) và Công ty Marubeni (Nhật Bản), chở 10 nghìn tấn than antraxit (Anthracite) Hòn Gai đầu tiên rời cảng Cẩm Phả cung cấp cho nhà máy thiêu kết quặng của Tập đoàn JFE tại Philippines, mở ra một hướng đột phá mới cho ngành than Việt Nam. Tiếp theo thành công của chuyến tàu đầu tiên này, các chuyến than cấp cho Nhà máy Kokura của Sumitomo Metal Industries và Nhà máy Oita của Tập đoàn thép Nippon Steel, lần lượt được thực hiện vào tháng 12/1989.
Thành công trong việc cung cấp chuyến tàu than antraxit Hòn Gai đầu tiên cho các hộ luyện thép Nhật Bản là một dấu mốc vô cùng quan trọng, mở một cánh cửa lớn cho ngành than Việt Nam bước ra thế giới và đánh dấu bước khởi đầu hòa nhập vào với thị trường thế giới của ngành than Việt Nam.