Xem văn nghệ thời thiếu khó

Xem văn nghệ thời thiếu khó

Đã từng có một thời, đi xem văn nghệ là sự kiện của cả làng, cả xóm. Giữa muôn vàn thiếu thốn của thời bao cấp, giữa khói lửa của chiến tranh, cải lương, xiếc, chiếu bóng… đã trở thành nguồn động viên tinh thần, khơi lên những niềm vui, khát vọng, như một mạch sống ngầm bền bỉ nuôi dưỡng tâm hồn con người vượt qua gian khó.

Những trái tim đồng điệu

Dù không thường xuyên, liên tục, nhưng các đội chiếu bóng lưu động, với sự khác biệt về loại hình, kỹ thuật, thật sự là những người mang giấc mơ và ánh sáng văn hóa đến mọi vùng quê. Mỗi buổi chiếu phim là một ngày hội thật sự, người dân nô nức đi bộ hàng chục cây số, rải chiếu, xếp gạch giữ chỗ từ chiều để được đắm mình trong những câu chuyện trên tấm màn trắng căng vội. “Thời đó, khi thấy tấm áp-phích dán ở đầu xóm, đầu làng là bà con phấn khởi, tranh thủ nấu nướng, ăn tối nhanh chóng để còn ra giữ chỗ xem phim”, ông Đỗ Duy Tiến (cán bộ chiếu bóng thời kỳ 1968-1996) chia sẻ.

Các đội chiếu bóng đã vượt qua muôn vàn gian khổ, từ đường sá hiểm trở đến bom đạn chiến tranh, có khi phải liên tục đạp xe hàng chục cây số để luân chuyển phim giữa các địa điểm chiếu. Thông qua những bộ phim kinh điển như: Vợ chồng A Phủ, Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm hay Cánh đồng hoang, hệ thống chiếu bóng lưu động không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí cho người dân, mà còn là một kênh tuyên truyền chiến lược, góp phần củng cố tinh thần yêu nước và phổ biến chính sách của Đảng, Nhà nước.

phan-4-vannghe1.jpg

Sân chiếu bóng khi ấy có thể là sân kho hợp tác xã, là bãi đất trống đầu làng, là một góc hội trường nhà máy, thậm chí là một chốt tiền tiêu nơi biên giới. “Đường lên xã hồi đó bé, có những đoạn ô-tô không lên được, bà con liền mỗi người phụ giúp, bê máy, bê đồ lên điểm chiếu. Tới đêm, bà con còn nấu cơm cho ăn, cảm giác mình đang ở nhà chứ không phải đang đi làm nữa”, ông Tiến nhớ lại.

Dòng nhạc cách mạng luôn có sức sống mãnh liệt trong lòng công chúng. NSND Trung Đức kể rằng, trong những năm 1980-1990, khán giả thường đứng chật kín sân khấu, từ người già đến trẻ nhỏ, để nghe ông hát. Những bài như Chào em, cô gái Lam Hồng hay Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây khiến khán giả reo hò, vỗ tay không ngớt. Ông chia sẻ: “Có lần ở Hà Tĩnh, khán giả yêu cầu hát lại Chào em, cô gái Lam Hồng đến ba lần, tôi mệt nhưng vui lắm, vì họ hát theo từng câu”.

phan-4-vannghe3.jpg

Người dân ở các vùng quê thậm chí còn ngồi dưới trời mưa, mang cả gà, vịt đến tặng đoàn ca nhạc. Họ không chỉ thưởng thức mà còn sống cùng những bài hát, bởi chúng gợi nhắc ký ức chiến tranh và tinh thần đoàn kết dân tộc. “Họ không có nhiều tiền, nhưng tình cảm của họ quý hơn vàng”, ông nói.

Bà Phí Thị Vinh, cựu diễn viên Đoàn Cải lương Chuông Vàng (nay thuộc Nhà hát Cải lương Hà Nội), vẫn nhớ như in những lần người dân háo hức chạy theo xe phát tờ rơi giới thiệu vềvởdiễn. “Ngày đó, mỗi lần đoàn diễn là như một sự kiện. Rạp đông nghẹt, chen nhau như vào chợ Tết”, bà Vinh hào hứng kể. Khán giả phải xếp hàng từ rất sớm, có khi từ đêm hôm trước hoặc sáng sớm tinh mơ để mong mua được vé. “Nhiều khán giả còn khóc cười theo số phận nhân vật. Các vở diễn thường khai thác đề tài éo le, bi thảm, đặc biệt là về số phận người phụ nữ, nên thu hút đông đảo phụ nữ đến xem và tìm thấy sự đồng điệu”, bà Vinh chia sẻ thêm. Sau mỗi buổi diễn, người dân lại tụ tập bàn tán sôi nổi về vở diễn, biến cải lương thành một đề tài quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày.

Khác với không khí bi lụy, đẫm nước mắt của nhiều vở cải lương, gánh xiếc rong lại mang đến tiếng cười sảng khoái, sự thán phục cho khán giả. NSƯT Phạm Xuyên (nguyên Phó Giám đốc Liên đoàn Xiếc Việt Nam) gọi đó là thứ "nghệ thuật đường phố đỉnh cao". Đằng sau những tiếng cười ấy là mồ hôi và nước mắt của sự khổ luyện khắc nghiệt, đúng như câu khẩu hiệu người trong nghề vẫn truyền lại cho nhau: "Nước mắt trước, nụ cười sau". Ký ức sâu đậm nhất của ông là những chuyến đi biểu diễn phục vụ bộ đội trên các điểm chốt trong cuộc chiến đấu bảo vệbiên giới phía bắc năm 1979.

phan-4-vannghe.jpg
Cảnh quen thuộc trước cửa rạp chiếu phim thời bao cấp.

Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, cũng là lúc những khán giả tâm huyết bắt đầu hành trình nhọc nhằn tìm lại các giá trị văn hóa đã bị lãng quên.

Câu chuyện của NSƯT Bạch Vân và ca trù là một minh chứng tiêu biểu. Từ một khán giả say mê tiếng hát, bà đã trở thành một trong những người có công lớn đưa ca trù trở lại rộng rãi hơn với công chúng. Bà đã vượt đồng, lội bùn đến khắp các vùng từng có truyền thống ca trù như Hải Dương (nay thuộc thành phốHải Phòng), Bắc Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), Thái Bình (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) để tìm từng nhà nghệ nhân xin học và vận động họ trở lại với nghề.

“Nhớ mãi, có hôm đạp xe gần cả ngày trong mưa đểđến được nhà nghệ nhân. Áo quần của tôi lấm lem mà cụ thì già yếu. Vừa gặp tôi, cụ liền bật khóc vái lấy vái để. Tôi sợ quá, quăng chiếc xe đạp đỡ cụ. Khi đó cụ vừa khóc vừa nói: “Bao năm rồi, tưởng cái nghề này chết rồi, không còn ai nhớ đến “nó” nữa. Hôm nay có người đến hỏi, mừng… mừng quá rồi!”, NSƯT Bạch Vân kể lại.

Di sản một thời gian khó

Sự nồng nhiệt của công chúng chính là thước đo giá trị và động lực để các nghệ sĩ "diễn hết mình". “Khi kết màn, mình chào khán giả thôi cũng phải thật tâm huyết, chậm rãi! Chào đến đâu nhìn đến đó đầy trân trọng. Từ đó khán giả mới yêu quý, mới muốn đến xem, đến thưởng thức văn hóa”, NSƯT Phạm Xuyên chia sẻ. Sự gắn kết máu thịt, thấu hiểu và nhân văn ấy đã tạo nên một thời đại mà nghệ thuật và cuộc sống hòa quyện làm một.

Ởphía sau ánh đèn sân khấu, những người nghệ sĩ của thời gian khó ấy cũng trải muôn nỗi khó khăn. NSƯT Phạm Xuyên kể lại câu chuyện về một diễn viên phải bán vé ra chợ đen vì hoàn cảnh riêng quá khổ sở. Khi phát hiện, thay vì đuổi việc, ông chỉ đề nghị kỷ luật chậm lên lương một năm, vì ông hiểu "đuổi một con người rất dễ, giữ người ta ở lại mới khó", nhất là khi cuộc sống của họ ở thành phố vô cùng vất vả.

Nhìn lại, chính sự khan hiếm đã chắt lọc và nâng tầm giá trị của việc thưởng thức. Khi một tấm vé, một cuốn sách là thứ tài sản quý giá, người ta không "tiêu thụ" nghệ thuật một cách hời hợt, mà "thưởng thức" và "chiêm nghiệm" trọn vẹn. Di sản lớn nhất thời kỳ gian khó để lại không chỉ là những tác phẩm kinh điển, mà còn là một thế hệ công chúng có khả năng thẩm thấu nghệ thuật một cách sâu sắc.

Ngày nay, nghệ thuật có thể biến đổi theo thị hiếu, công nghệ có thể làm mới sân khấu, nhưng thứ không thể thay thế chính là tinh thần cống hiến và sự đồng cảm giữa người làm nghệ thuật và công chúng. Câu chuyện về một thời háo hức chờ buổi chiếu phim hay say mê nghe câu vọng cổ sẽ mãi là lời nhắc nhở quý giá. Những tiết mục năm xưa dù đã cũ vẫn sống âm ỉ trong lòng khán giả đã từng tin, từng chờ đợi, từng khóc cười cùng nghệ sĩ. Chính sự kết nối sâu sắc, sự tận hiến không điều kiện đã làm nên một thời văn nghệ đẹp đến nao lòng. Đó là thời mà nghệ sĩ không cần nổi tiếng, chỉ cần được hát cho người mình yêu quý và khán giả không chỉ ngồi xem, mà sống trọn vẹn cùng từng tiết mục.