Trao tặng quà lưu niệm cho gia đình các nhân chứng lịch sử. Ảnh: THẾ ĐẠI
Trao tặng quà lưu niệm cho gia đình các nhân chứng lịch sử. Ảnh: THẾ ĐẠI

Chuyện chưa kể về những người làm nên lịch sử

Tại Báo Nhân Dân (71 Hàng Trống, Hà Nội), chiều 13/8, tọa đàm “Gặp gỡ gia đình các nhân chứng lịch sử trực tiếp lãnh đạo Khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám” đã diễn ra đầm ấm. Nhiều câu chuyện từ những người con, người bạn… đã đưa trở lại những ngày sục sôi của mùa Thu năm 1945...

1. Những câu chuyện được kể ấm áp, dung dị từ những người thân của các nhà cách mạng, về những mảnh ký ức riêng tư, vừa đời thường, vừa thấm dấu ấn lịch sử - những câu chuyện mà chỉ có họ, với trải nghiệm trong gia đình, mới có thể truyền lại trọn vẹn.

Bà Nguyễn Thanh Hương, con gái nhà cách mạng Nguyễn Khang (1919-1976) nguyên Thường vụ Xứ ủy, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội (UBKNHN), mở đầu với câu chuyện tình yêu vừa ngọt ngào vừa đặc biệt của cha mẹ mình. Mối tình nảy nở giữa những ngày đất nước sục sôi chuẩn bị khởi nghĩa. Năm 1945, đoàn xiếc Tạ Duy Hiển tập trung tại Hà Đông, trái tim chàng chiến sĩ Nguyễn Khang xao xuyến bởi cô con gái Tạ Thị Thọ của ông Hiển. Nhưng giữa bộn bề công việc cách mạng, ông không biết mở lời thế nào. Sau này, nhờ ông Đặng Kim Giang, một người bạn thân thiết của cả hai gia đình mà hai người mới có dịp nên duyên.

Bà Hương cười, kể lại buổi hẹn hò đầu tiên của cha mẹ: “Hai ông bà mỗi người một chiếc xe đạp, thong thả vòng quanh bờ hồ. Mẹ tôi rủ bố ăn kem ở Hàng Đào, nhưng đến khi thanh toán thì hóa ra bố… không trả tiền, mà mẹ trả”.

Những tưởng tình cảm ấy sẽ nhanh chóng kết thành đôi, nhưng ông Nguyễn Khang vẫn kiên định: “Cách mạng chưa thành công, nhất định không lấy vợ”. Phải hơn một năm sau - 1946, khi khói lửa kháng chiến đã tạm lắng, ông mới cưới bà Thọ trong một lễ thành hôn giản dị, ấm áp giữa vòng tay hai bên gia đình. Ông Nguyễn Khang thường dạy con cháu: “Học để làm việc có ích, sống xứng đáng với đồng đội”. Sau này, ông còn góp phần hỗ trợ cách mạng Lào như một minh chứng cho tầm nhìn về tình hữu nghị cách mạng.

Tiếp nối câu chuyện, ông Trần Kháng Chiến, con trai đồng chí Trần Tử Bình (1907-1967), nguyên Thường vụ Xứ ủy, trực cơ quan Xứ ủy ở Vạn Phúc và phụ trách 10 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, đưa người nghe trở lại những ngày trước khởi nghĩa, khi công việc chuẩn bị được tiến hành khẩn trương, từng bước chắc chắn. Ông kể, cha mình từng trực tiếp gặp chỉ huy quân Nhật ở Hà Đông, thuyết phục họ không can thiệp vào công việc của nhân dân, tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng giành chính quyền trong hòa bình. Một quyết định tưởng như chỉ là “chi tiết nhỏ” ấy lại mở ra cánh cửa cho khởi nghĩa ở Hà Đông diễn ra thuận lợi, không đổ máu, điều mà trong chiến tranh rất khó để diễn ra. Ông Chiến cũng chia sẻ những ký ức về tình đồng chí trong chiến tranh: có những lúc chỉ cần một cái nhìn hay một cái bắt tay là đủ hiểu nhau; có những đêm cả đơn vị chỉ có một tấm chăn vẫn chia sẻ đều; hay những củ sắn luộc trong hành quân cũng được bẻ đôi cho đồng đội. “Đó là tình cảm mà thế hệ chúng tôi luôn trân trọng, bởi nó được xây từ niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng chung”, ông nói.

2. Những câu chuyện đời thường giản dị ấy lại tạo nên điều đặc biệt cho buổi tọa đàm, khi mà những câu chuyện chỉ có thể được kể, được nghe từ những con người chứng kiến. Những câu chuyện của ông Chiến, bà Thanh Hương là một trong hàng nghìn câu chuyện tình nghĩa trong suốt chiều dài lịch sử kháng chiến của dân tộc Việt Nam.

Ông Nguyễn Đoan Hùng, con trai đồng chí Nguyễn Văn Trân (1917-2018), Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ kể, cha ông, sinh ra ở Bắc Ninh, cũng lên Hà Nội học nghề in từ năm 14 tuổi. “Năm 1936, cha tôi bắt đầu hoạt động cách mạng. Đến năm 1940, ông bị bắt, tù ở Sơn La, tháng 8/1943, đồng chí Tô Hiệu tổ chức vượt ngục, cuộc vượt ngục diễn ra rất thành công. Bố tôi nhớ mãi trong quá trình vượt ngục có ông Lò Văn Giáng, người dân tộc Thái, được giác ngộ và dẫn đoàn vượt ngục, sau này khi trở về bị địch bắn chết. Trước khi mất, bố tôi vẫn căn dặn chúng tôi thăm hỏi động viên, giúp đỡ con cháu trong gia đình ông”, ông Hùng cho biết.

Nhớ lại ngày 19/8/1945, khi Trung ương họp ở Tân Trào, đoàn đại biểu Bắc Bộ do đồng chí Nguyễn Văn Trân dẫn đầu được lệnh trở về gấp. Trên đường, gặp cảnh vỡ đê ở Vĩnh Yên, đoàn không thể về kịp. Khi tới Chèm, họ thấy cờ đỏ sao vàng rợp trời, dân quân tập trung khắp bến sông. “Tới bờ bên kia, nhóm cha tôi bị nghi ngờ và tạm giữ. Phải xin mãi mới được gặp lãnh đạo, rồi may mắn được gặp đồng chí Hoàng Tùng, sau đó mới triển khai tiếp công việc”, ông Hùng kể: “Cuộc đời của bố tôi luôn luôn có 2 nguyên tắc. Một là giữ chữ tín, hai là luôn luôn phải phấn đấu, người ta làm được thì mình cũng phải làm được, nếu mình chưa làm thì tiếp tục học tập. Đó luôn là kim chỉ nam cho chúng tôi hay các con cháu của cụ”.

Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, chia sẻ: “Lịch sử là sự nối dài ký ức. Bên cạnh các nhà nghiên cứu, nhân chứng lịch sử đóng vai trò vô cùng quan trọng. Khi bác (Đại tướng) Nguyễn Quyết mất, anh em Viện Sử học nói với nhau rằng từ giờ, lịch sử thật sự đã… đi vào lịch sử, vì không còn nhân chứng nữa. Những gia đình còn giữ được câu chuyện, bức ảnh, kỷ vật, đó là báu vật không chỉ của riêng họ, mà của cả dân tộc”.

Xem thêm