Đặc biệt, trong thời hội nhập, tính cách ấy, bản sắc ấy trở thành lợi thế hay rào cản như thế nào cho quá trình phát triển? Chúng tôi có cuộc trò chuyện cùng ông về những nội dung này.
Người Việt Nam vừa kiên cường vừa mềm dẻo
- Giáo sư đã bắt đầu nghiên cứu về Việt Nam từ cuối những năm 1960 khi cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của chúng tôi bước vào giai đoạn cam go, khốc liệt. Từ đất nước Nhật Bản, điều gì thôi thúc ông quan tâm tới lịch sử dân tộc Việt Nam khi đó?
- Mối quan tâm của một người muốn thử sức với các vấn đề ở châu Á như tôi tự nhiên hướng đến Việt Nam. Trên báo chí Nhật Bản, các tin, bài phóng sự về cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam xuất hiện dày đặc và đối với tôi, dường như cả thế giới đang chuyển động với trung tâm là Việt Nam. Tôi đã nghĩ, nếu có thể hiểu được về đất nước Việt Nam thì có thể dễ dàng hiểu được về thế giới. Đó chính là lý do lớn nhất khiến tôi chọn Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu của mình. Cảm nhận sức hút của việc giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc ở Việt Nam trong cuộc kháng chiến ấy cũng là lý do mạnh mẽ của lựa chọn này.
Kể từ khi chọn đề tài “Cách mạng tháng Tám năm 1945 của Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp đại học, đến nay, tôi đã hoạt động với tư cách là một nhà Việt Nam học được hơn 45 năm.
- 45 năm nghiên cứu về Việt Nam, ông rút ra điều gì thú vị trong tính cách con người Việt Nam?
- Tôi thấy rằng, có hai yếu tố ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách con người Việt Nam, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Đó là nền nông nghiệp lúa nước, ngành sản xuất chính của Việt Nam và sự chống lại xâm lược từ bên ngoài. Tính cách người Việt vừa kiên cường nhưng lại vừa mềm dẻo, dễ thích nghi với hoàn cảnh. Hai đặc điểm này luôn tồn tại song hành cùng nhau mà không tách bạch một chiều.
Cũng có học giả Việt Nam đã ví đặc tính tùy cơ ứng biến, mềm dẻo của người Việt với “nước”. Chúng ta sẽ cảm thấy thuyết phục khi liên tưởng đến dòng ô-tô, xe máy, xe đạp đang lưu thông trên đường phố tại các khu đô thị lớn của Việt Nam, nhìn qua tưởng như không có trật tự nhưng thật ra, lại theo một dòng chảy nhất định, không khác gì dòng nước.
- Làm việc ở Việt Nam đã lâu, ông đã nhiều lần được chứng kiến sự linh hoạt, ứng biến của người Việt trong cuộc sống và công việc?
- Năm 1977, khi là nghiên cứu sinh năm thứ hai, tôi đã có cơ hội sang Việt Nam với tư cách là giảng viên dạy tiếng Nhật tại Trường đại học Ngoại thương Hà Nội. Phương tiện giao thông của người Hà Nội lúc đó chủ yếu là xe đạp, khác nhiều với tình trạng hầu như chỉ có ô-tô và xe máy hiện nay, nhưng cách mà mọi người tùy ý đi vào phần đường mình muốn đi thì… vẫn khá giống nhau, ở cả hai thời kỳ. Lúc đó, rất hay có chuyện khi đang đạp xe trên đường, bỗng nhiên người đi xe đạp phía trước giơ một tay ngang ra (xin đường) và rẽ luôn, thật dễ dẫn đến va chạm với người đang đi phía sau. Hay là chuyện để cải thiện đời sống, người dân Hà Nội đã nghĩ ra nhiều cách, mà những người làm nghiên cứu như chúng tôi gọi là các “hành vi phá rào”, như nuôi lợn, gà ngay trong căn hộ chật hẹp ở khu tập thể…
Ở Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên ấy, tôi đã ấn tượng mạnh mẽ về việc “người người tự mưu sinh theo các cách khác nhau”.
Phải biết thế giới và phải biết mình
- Trong thời hội nhập, sự linh hoạt, mềm dẻo của người Việt chắc hẳn sẽ dễ dàng thích ứng với những biến đổi mạnh mẽ, nhanh chóng của hiện tình thế giới, thưa ông?
- Tôi nghĩ rằng, hệ giá trị của tinh thần đoàn kết, sự kiên cường và khả năng thích nghi đã tạo nên tính cách của dân tộc Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử. Bản sắc dân tộc không cố định, mà là một dòng chảy liên tục được làm mới nhưng vẫn giữ vững cốt lõi. Trong thời chiến, bản sắc dân tộc được thể hiện mạnh mẽ qua tinh thần yêu nước bất khuất và sự sẵn sàng hy sinh. Trong thời đổi mới, với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, bản sắc dân tộc mềm dẻo, thích nghi được phát huy.
Hiện nay, bản sắc Việt Nam thể hiện qua sự dung hòa, không mất đi gốc rễ nhưng vẫn cởi mở với xu hướng toàn cầu hóa văn hóa đại chúng. Thế hệ trẻ Việt Nam dù ở đâu cũng vẫn tìm cách khẳng định “mình là người Việt Nam” qua ngôn ngữ nội dung sáng tạo và các phong trào văn hóa.
Tôi thấy chính sự đa dạng, linh hoạt và khát khao khẳng định vị thế là yếu tố giúp tinh thần Việt Nam tiếp tục vươn lên trong thế kỷ 21. Tôi kỳ vọng, Việt Nam sẽ đưa ra chính sách khuyến khích phát triển sức mạnh mềm trên trường quốc tế, tức là tích cực xuất khẩu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.
- Theo nhìn nhận của một nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm như ông, bên cạnh những mặt tích cực của sự linh hoạt, uyển chuyển trong tính cách con người Việt Nam thời hội nhập, có yếu tố nào trong tính cách này cần được cải thiện để tránh tạo nên rào cản cho chính quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam?
- Điều cơ bản nhất là phải biết thế giới và phải biết mình. Nếu chỉ biết thế giới hoặc nếu chỉ biết mình thì nguy hiểm, hoặc là rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đánh mất tầm nhìn ra thế giới hoặc rơi vào một nguy cơ khác là quá chú trọng hội nhập quốc tế mà đánh mất chính mình. Điều quan trọng với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế là tránh cả hai nguy cơ này và không ngừng phát triển hài hòa giữa việc phát huy bản sắc dân tộc và sự hội nhập quốc tế.
Việt Nam đang có cơ hội vươn lên mạnh mẽ. Thế nhưng con đường này không dễ dàng. Với một nền chính trị ổn định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi tin, đất nước của các bạn sẽ hội nhập sâu rộng trên trường quốc tế nhưng sẽ vẫn giữ vững bản sắc dân tộc mình. Việc “hiểu mình, hiểu người” sẽ giúp cho quá trình hội nhập của Việt Nam không vấp phải những sai lầm đáng tiếc, hòa nhập nhưng không hòa tan.
- Trân trọng cảm ơn Giáo sư về cuộc trò chuyện!