Vườn ươm sản xuất cây giống lâm nghiệp tại tỉnh Quảng Trị đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Vườn ươm sản xuất cây giống lâm nghiệp tại tỉnh Quảng Trị đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững.

Vùng nguyên liệu gắn với chứng chỉ quản lý rừng

Ngành lâm nghiệp Việt Nam đang đứng trước yêu cầu ngày càng cao về bảo đảm nguồn gốc xuất xứ gỗ hợp pháp. Phát triển vùng nguyên liệu rừng gỗ lớn gắn với chứng chỉ quản lý rừng bền vững là xu hướng tất yếu, giúp nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh, giảm phát thải, thích ứng biến đổi khí hậu.

Rừng gỗ lớn với chu kỳ trồng dài, khả năng tích trữ sinh khối cao, đang tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế lớn, tiến tới xây dựng ngành chế biến gỗ hiện đại, hiệu quả.

Tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm gỗ

Gần bốn năm qua, gia đình ông Đậu Văn Thắng và nhiều hộ dân khác ở xã Lương Sơn (Nghệ An) đã chuyển từ trồng rừng theo kiểu truyền thống sang trồng rừng gỗ lớn gắn với chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Với hơn 2ha cây keo đang sinh trưởng, phát triển tốt hứa hẹn mang lại giá trị cao, ông Thắng chia sẻ: “Từ khi tham gia dự án trồng rừng có chứng chỉ với Công ty TNHH Biomass Fuel Việt Nam, chúng tôi được tập huấn quy trình kỹ thuật sản xuất, cấp cây giống chất lượng, có nguồn gốc. Đặc biệt, công ty cam kết thu mua gỗ với giá cao hơn thị trường nên chúng tôi rất phấn khởi”.

Phó Trưởng Phòng Lâm nghiệp, Công ty TNHH Biomass Fuel Việt Nam Lê Anh Ngọc Anh cho biết: “Từ năm 2022, công ty kết hợp nhiều hộ dân ở tỉnh Nghệ An trồng rừng keo gắn với chứng chỉ quản lý rừng. Các hộ dân được hỗ trợ kinh phí cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững khi tham gia và được tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc bảo đảm sinh trưởng, phát triển và cho gỗ tốt, năng suất cao cũng như quy trình khai thác hiệu quả. Qua đánh giá, hiện nay kỹ thuật canh tác của người dân đạt khoảng 90% tiêu chí bảo đảm chứng chỉ quản lý rừng bền vững”.

Từ năm 2011 đến nay, Trung tâm Khuyến nông quốc gia triển khai nhiều dự án trồng rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững trên cả nước, đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực.

Theo Phó Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông quốc gia) Nguyễn Huy Thuấn, thông qua các dự án, nông dân đã tiếp cận tiến bộ kỹ thuật, xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ gỗ hợp pháp. Điển hình là những dự án xây dựng mô hình trồng rừng gỗ lớn thâm canh theo hướng quản lý rừng bền vững phục vụ chế biến và xuất khẩu giai đoạn 2022-2024 tại Tuyên Quang, Phú Thọ, Bắc Giang (cũ) với quy mô 120ha. Cây keo lai mô sinh trưởng nhanh, năng suất cao hơn 20-25% so trồng bằng giống thông thường.

Ngoài ra còn có dự án xây dựng mô hình vườn ươm sản xuất cây giống lâm nghiệp phục vụ trồng rừng vùng nguyên liệu giai đoạn 2022-2024 triển khai ở Quảng Trị và thành phố Huế với quy mô sáu vườn ươm có công suất từ 300.000-500.000 cây keo giống/năm. Dự án cung cấp nguồn giống chất lượng cao, có truy xuất nguồn gốc, đáp ứng tiêu chuẩn phục vụ cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Giống keo này cũng giúp tăng năng suất rừng trồng từ 20-30m3/ha, cao hơn 25-30% so giống thông thường.

Nâng cao tỷ lệ cấp chứng chỉ quản lý rừng

Rừng trồng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững giúp các sản phẩm gỗ Việt Nam nâng cao uy tín và thâm nhập sâu hơn vào các thị trường quốc tế, nơi có yêu cầu ngày càng cao về nguồn gốc, chất lượng. Tuy nhiên, diện tích rừng trồng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững còn thấp. Qua thống kê, đến ngày 30/6, cả nước có khoảng 680.000ha, tương đương khoảng 15% diện tích rừng trồng sản xuất.

Liên quan vấn đề này, Phó Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững Nguyễn Hoàng Tiệp cho rằng: “Hầu hết diện tích rừng đã được cấp chứng chỉ là do chủ rừng tự bỏ kinh phí hoặc liên kết doanh nghiệp chế biến gỗ thực hiện. Đồng thời, diện tích rừng trồng sản xuất phần lớn manh mún, không tập trung, chủ yếu do hộ gia đình, cá nhân quản lý. Trong khi đó, hiện có khoảng một triệu hộ quản lý rừng cho nên gây khó khăn về lập hồ sơ cấp chứng chỉ; diện tích rừng được cấp chứng chỉ cũng khó duy trì lâu dài do thiếu kinh phí… Mặt khác, diện tích rừng trồng chủ yếu là rừng gỗ nhỏ, chu kỳ kinh doanh ngắn, kích thước gỗ nhỏ và sản lượng khai thác/ha thấp. Do vậy, lợi nhuận khi bán gỗ có chứng chỉ đối với gỗ nhỏ thấp hơn từ 10 đến 15%”.

Bên cạnh đó, ngành lâm nghiệp thiếu mô hình trồng rừng gỗ lớn có chứng chỉ rừng kết hợp sản xuất lâm sản ngoài gỗ; liên doanh, liên kết giữa người dân với doanh nghiệp sản xuất gỗ lớn theo chuỗi từ khâu trồng đến chế biến, tiêu thụ chưa phát triển và thiếu ổn định; tìm kiếm, liên kết doanh nghiệp thu mua sản phẩm gỗ có chứng chỉ hạn chế. Chi phí lập phương án quản lý rừng, đánh giá chứng chỉ, giám sát cũng là rào cản lớn đối với nhóm hộ nhỏ lẻ, phân tán.

Nhìn từ thực tế ở tỉnh Nghệ An - địa phương có diện tích trồng rừng lớn với 973.000ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 59% - những năm gần đây, trồng rừng sản xuất đã đạt nhiều kết quả tích cực giúp bảo vệ, phát triển vốn rừng, tạo việc làm, cải thiện sinh kế cho người dân làm nghề rừng. Mặc dù vậy, diện tích rừng có chứng chỉ quản lý bền vững trên địa bàn còn khiêm tốn với hơn 36.100ha, chiếm 19,78%.

Theo ông Nguyễn Nam Sơn, đại diện Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường): “Để khuyến khích phát triển diện tích rừng được cấp chứng chỉ thời gian tới, việc xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ các chủ rừng đăng ký và đạt được chứng chỉ quản lý rừng bền vững là việc làm rất cần thiết”.

Xem thêm