Doanh nhân Nguyễn Thành Nam. Ảnh: TRẦN HẢI
Doanh nhân Nguyễn Thành Nam. Ảnh: TRẦN HẢI

TS Nguyễn Thành Nam, Nguyên Tổng Giám đốc FPT: "Doanh nhân phải xem thị trường toàn cầu là đất sống"

TS Nguyễn Thành Nam - nguyên Tổng Giám đốc Tập đoàn FPT, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Trường đại học FPT, Hiệu trưởng Đại học Trực tuyến FUNiX - đã chia sẻ góc nhìn về Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Ông đồng thời bày tỏ quan điểm chung quanh sự sẵn sàng của doanh nhân trong kỷ nguyên mới cùng lý do các nhà hoạch định chính sách cần lắng nghe thế hệ doanh nhân Gen Z...

KHI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN ĐƯỢC KHẲNG ĐỊNH VỊ THẾ

Theo ông, có thể coi việc Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định đầy đủ vai trò của đội ngũ doanh nhân là dấu mốc quan trọng, mở đường cho một tư duy phát triển mới không?

Với Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, theo tôi, thay đổi lớn nhất đối với đội ngũ doanh nhân chính là tính chính danh. Trước đây, chúng ta nói “kinh tế nhiều thành phần” nghĩa là chấp nhận nhưng chưa thật sự thừa nhận sự hiện diện của khu vực tư nhân. Với Nghị quyết số 68-NQ/TW, khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.

Thời bao cấp, doanh nhân thường bị xếp ở vị trí thứ yếu, thậm chí từng bị gán cho hình ảnh “con buôn”, “gian thương”. Nhưng theo thời gian, vai trò ấy ngày càng được khẳng định. Nếu nhìn vào những tiêu chí cơ bản để đánh giá một doanh nghiệp - đóng thuế, tạo việc làm, tham gia hoạt động xã hội - thì nhiều doanh nghiệp tư nhân đã làm rất tốt.

screen-shot-2025-10-12-at-165540.png

Điểm đáng chú ý, tinh thần ấy được khẳng định mạnh mẽ hơn trong nghị quyết này của Bộ Chính trị. Với đội ngũ doanh nhân, đặc biệt là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, điều này giúp họ cảm nhận rõ hơn vị trí và tầm quan trọng của mình. Trước đây, vẫn còn những định kiến: nào là “doanh nghiệp tư nhân toàn vừa và nhỏ, chẳng có ai lớn cả”, rồi “cuối cùng cũng chỉ toàn gian lận”. Cách nhìn như vậy khiến nhiều doanh nhân cảm thấy nỗ lực đến mấy cũng khó được ghi nhận.

Nghị quyết số 68-NQ/TW ra đời đã thắp lên kỳ vọng về một sự thay đổi căn bản trong nhận thức. Và tôi luôn tin rằng khi nhận thức thay đổi thì hành động sẽ thay đổi. Dĩ nhiên, đó mới là bước đi ở cấp cao nhất, để lan tỏa xuống các cấp, vẫn cần thêm thời gian.

Giới doanh nhân đánh giá cao điểm mấu chốt trong Nghị quyết số 68/NQ/TW là không hình sự hóa quan hệ kinh tế cũng như chấm dứt tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo gây ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp. Quan điểm của ông như thế nào?

Trước đây, doanh nghiệp thường xuyên bị “quan tâm”: thanh tra, kiểm tra, giấy mời lên làm việc... khiến họ sống trong tâm trạng nơm nớp lo sai. Thậm chí chỉ một cán bộ quản lý thị trường ghé “hỏi thăm” cũng đủ làm doanh nhân mất ăn mất ngủ.

Nghị quyết số 68-NQ/TW đưa ra nguyên tắc rất rõ: Chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra mỗi năm 1 lần đối với doanh nghiệp, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về việc doanh nghiệp vi phạm; triển khai thanh tra, kiểm tra trực tuyến, ưu tiên thanh tra, kiểm tra từ xa dựa trên các dữ liệu điện tử, giảm thanh tra, kiểm tra trực tiếp. Nếu làm đúng, những quy định này sẽ gỡ bỏ được gánh nặng tâm lý phòng thủ, nỗi sợ mơ hồ bấy lâu của doanh nghiệp.

Theo góc nhìn của ông, Nghị quyết số 68/NQ-TW đã thể hiện tư duy mới về vốn cho doanh nghiệp tư nhân ở điểm nào?

Một điểm đột phá khác là vấn đề vốn. Hiện nay không ít doanh nghiệp phải vay cả tín dụng đen vì hệ thống ngân hàng thiết kế điều kiện vay cho những khoản lớn gắn chặt với tài sản thế chấp. Tôi vẫn hay đùa với bạn bè làm ở ngân hàng: “Các ông khác gì tiệm cầm đồ”... Cho vay thì lẽ ra phải nhìn vào dòng tiền, phải đánh giá dự án có tạo ra tiền hay không, chứ không phải chỉ nhăm nhăm nhìn vào tài sản thế chấp thường là bất động sản. Trớ trêu thay, có những dự án chỉ tồn tại trên giấy vẫn được cấp vốn, trong khi dự án làm thật, có dòng tiền lại không được vay vì thiếu tài sản thế chấp.

Nghị quyết số 68-NQ/TW đã nêu rõ: Đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho kinh tế tư nhân. Theo đó, các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay trên cơ sở chủ động thẩm định phương thức sản xuất - kinh doanh, phương án mở rộng thị trường đầu ra, cho vay dựa trên dữ liệu, dòng tiền, chuỗi giá trị...; đồng thời chấp nhận nhiều loại tài sản bảo đảm như động sản, tài sản vô hình, tài sản hình thành trong tương lai và cả hình thức vay tín chấp.

Điều này sẽ tháo gỡ rất nhiều vướng mắc cho doanh nghiệp. Bởi hệ thống hiện tại giống như chăm sóc những cây đã lớn, trong khi phần đông doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới là những cây non. Không thể đợi đến khi cây ra quả mới tưới, vì nếu không tưới, cây đã chết khát từ trước rồi. Chúng ta cần một cơ chế vốn nuôi “cây” từ lúc còn là hạt giống, chứ không chỉ chăm sóc khi nó đã thành đại thụ.

Có ý kiến cho rằng khi một số doanh nghiệp vươn lên thành những “đại thụ”, tán rộng đôi khi che khuất ánh sáng phát triển của những cây non, khiến doanh nghiệp nhỏ và vừa khó có cơ hội lớn mạnh. Ông có lo ngại việc các doanh nghiệp lớn quá mạnh sẽ lũng đoạn thị trường và làm mất đi sự cân bằng trong hệ sinh thái kinh doanh?

Tôi nghĩ, ở Việt Nam hiện nay chưa có những doanh nghiệp đủ tầm “đại thụ” để che hết ánh sáng như thế. Ngược lại, vấn đề là doanh nghiệp lớn phải biết tạo công ăn việc làm, tạo “thức ăn” cho nhiều doanh nghiệp nhỏ cùng phát triển mới đúng.

Trong Nghị quyết số 68-NQ/TW có một điểm tôi đặc biệt quan tâm: Mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào các dự án quan trọng quốc gia. Nếu thực hiện được điều này, tôi cho rằng sẽ rất tốt. Vấn đề còn lại là làm sao thể chế hóa cho thật chặt chẽ, khả thi.

Còn chuyện lo doanh nghiệp lớn lũng đoạn thị trường? Tôi nghĩ ở nước mình chưa đáng ngại. Trái lại, điều chúng ta đang cần chính là có hàng nghìn doanh nghiệp lớn mạnh thì mới tạo ra sức bật cho nền kinh tế.

ĐÃ ĐẾN LÚC DOANH NHÂN PHẢI Ở TRONG TÂM THẾ TIẾN CÔNG

Theo ông, trong kỷ nguyên mới, một doanh nhân cần có những phẩm chất nào và phải trang bị những kiến thức gì để có thể đứng vững và vươn ra thị trường toàn cầu?

Thời kỳ mở cửa, nhiều người bước vào con đường kinh doanh với tâm thế đơn giản: thoát nghèo. Nhưng để làm doanh nghiệp còn cần kiến thức. Tôi nhớ Học viện PACE của Giản Tư Trung có đưa ra một khái niệm rất hay: “Doanh trí”. Nhiều người lầm tưởng mở công ty, bán được sản phẩm là trở thành doanh nhân. Không phải như vậy! Một doanh nhân phải nắm được những kiến thức nền tảng, chứ không thể chỉ dừng ở cộng - trừ - nhân - chia. Lái xe thì phải có bằng, vậy mà đăng ký doanh nghiệp lại không yêu cầu bất kỳ kiến thức nền tảng nào về tài chính, pháp luật. Hệ quả là không ít người vướng vòng lao lý chỉ vì thiếu kiến thức cơ bản.

Doanh nhân phải có tham vọng. Giấc mơ có thể chỉ để mơ, nhưng tham vọng thì bắt buộc phải biến thành hành động. Tôi cảm giác doanh nhân Việt Nam ít có tham vọng lớn, nên những người có tham vọng lớn, có khi chúng ta lại không tin, thậm chí họ còn bị “ném đá”. Chúng ta phải khơi dậy, nâng niu tham vọng làm giàu đó.

Tôi tin doanh nhân Việt Nam hoàn toàn có thể “chiến đấu” sòng phẳng trên thị trường toàn cầu.

TS Nguyễn Thành Nam

Theo tôi, phẩm chất quan trọng nhất của doanh nhân là khả năng linh hoạt, thích nghi nhanh - điều này rất hợp với tố chất của người Việt Nam. Và nếu được trang bị nền tảng kiến thức tốt, lại được Nhà nước thật sự ủng hộ bằng việc xóa bỏ rào cản, tôi tin doanh nhân Việt Nam hoàn toàn có thể “chiến đấu” sòng phẳng trên thị trường toàn cầu. Doanh nhân hôm nay không thể chỉ quanh quẩn trong sân nhà, mà phải nuôi chí hướng vươn ra thế giới.

Theo ông, thế hệ doanh nhân trẻ - đặc biệt là Gen Z - với tư duy vươn ra toàn cầu đang tạo ra những khác biệt gì so với thế hệ trước? Và để họ có thể bung hết tiềm năng, chính sách cần thay đổi theo hướng nào?

Ngày trước, nhìn ra thế giới là chuyện xa vời, thậm chí rợn ngợp. Nhưng rồi internet xóa bỏ biên giới, thương mại điện tử xóa nốt khoảng cách giữa những mắt xích trong chuỗi cung ứng. Bây giờ, ngồi ở Việt Nam vẫn có thể kinh doanh khắp thế giới.

Và từ đó, Việt Nam xuất hiện một thế hệ doanh nhân hoàn toàn khác thế hệ chúng tôi. Họ mặc định là thị trường toàn cầu chứ không phải loanh quanh trong nước. Tôi còn nhớ, năm 2017, tôi ngồi với mấy bạn trẻ làm game cho thị trường... Peru. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Các em sang Peru lúc nào vậy?”. Cả nhóm cười: “Bọn em chưa đi bao giờ, tất cả qua mạng hết”.

Có nhiều thí dụ cho thấy, doanh nhân trẻ Việt Nam hoàn toàn có thể xâm nhập thị trường toàn cầu nhờ internet và thương mại điện tử. Điều đó chứng minh một điều giản dị: Nếu không bị cản trở, được khuyến khích, doanh nhân Việt sẽ rất mạnh. Và đã đến lúc phải ở trong tâm thế tiến công, không thể mãi phòng thủ. Chúng ta cũng không thể cứ nhăm nhăm dựng hàng rào, ngăn thế giới tiếp cận thị trường Việt Nam để “bảo vệ” mãi. Tâm lý phòng thủ của chúng ta bắt nguồn từ việc cả nghìn năm chống ngoại xâm, quen giữ đất, giữ làng. Nhưng hôm nay, lãnh thổ không chỉ là bản đồ, mà là thị trường. Ở đâu kiếm được tiền, ở đó chính là lãnh thổ kinh tế.

Tôi lấy dẫn chứng: Một doanh nhân trẻ ở Nghệ An, trong làng Xã Đoài, chỉ làm sticker, móc khóa mà bán khắp thế giới trên các sàn thương mại điện tử. Một chiếc móc khóa chi phí chỉ 1.200 đồng, bán được 9 USD. Giờ thì cả làng cùng làm. Cái này, nếu so sánh, chẳng khác nào “kinh doanh nhân dân” trong kinh tế số: Người dân cùng tham gia, miễn là được khuyến khích.

Khác hẳn thời tôi lọ mọ sang Mỹ tìm khách hàng phần mềm, lúc đó phải là tiến sĩ toán học, kỹ sư, thành ra dân thường nhìn vào thấy xa vời, không dám làm. Còn bây giờ, ai cũng có thể tham gia – internet giải phóng sức dân. Nhưng muốn thế, đừng chỉ nhìn thị trường Việt Nam, phải coi thị trường toàn cầu là đất sống. Nếu muốn cây lớn, rễ phải ăn sâu, vươn xa, hút dinh dưỡng khắp nơi. Còn nếu quẩn quanh trong chậu, thì cũng chỉ là cây cảnh.

Một thế hệ mới đã lớn lên cùng internet, cùng thương mại điện tử, với tư duy phẳng và biên giới mở. Thế hệ đó không mang mặc cảm “đi ra thế giới” như chúng tôi ngày xưa, mà coi thế giới là sân chơi mặc định.

Tôi biết một doanh nhân trẻ không hô khẩu hiệu, nhưng lại có những hành động thiết thực thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc là thuyết phục các đồng sáng lập ngoại quốc đến Việt Nam lập nghiệp, đưa vốn và nhân tài về cho đất nước.

Điều làm tôi lo là dường như những người hoạch định chính sách chưa thật sự quan tâm lắng nghe thế hệ này. Trong khi thế hệ doanh nhân trẻ có rất nhiều điều mới mẻ, sáng tạo để chia sẻ, bởi thời đại của họ đã khác xa thời doanh nhân của chúng tôi.

GIỮ CĂN CỐT VIỆT VÀ KẾT NỐI VỚI THẾ GIỚI

FPT nơi ông từng làm Tổng Giám đốc đã phát triển từ một doanh nghiệp rất nhỏ trở thành một “đại thụ” và vươn tầm ra thế giới. Theo ông, những giá trị nào đã tạo nên sự lớn mạnh của FPT?

Sự lớn mạnh của FPT, theo tôi, bắt đầu từ một niềm tin rất giản dị: Đất nước mình từng làm được những điều phi thường trong quá khứ, thì hôm nay cũng có thể làm được. Tôi nhớ khi gặp một lãnh đạo công ty phần mềm lớn nhất Ấn Độ, ông ấy bảo: “Các ông đã đánh thắng giặc Mỹ thì việc gì mà chẳng làm được?”. Đó là niềm tin nội tâm trong chúng tôi, không nói thành lời.

Điểm tựa tiếp theo là niềm tin vào con người Việt Nam. “Người trước, súng sau” - đó là phương châm phát huy nhân tố con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xây dựng, rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng là điều chúng tôi rất tâm đắc, áp dụng.

Trong bối cảnh hiện nay, quan trọng nhất vẫn là tìm ra những con người tiên phong, những người dám đi trước. Mặt khác, phải có phương pháp luận đúng, đó là khi đã làm ăn trên thị trường toàn cầu thì phải chấp nhận chuẩn mực của thế giới, không thể nghĩ ra một thứ chuẩn riêng. Công nghệ càng mới thì càng là cơ hội. Người Việt có lợi thế học rất nhanh, nên đừng bao giờ sợ cái mới. Đừng chờ giỏi rồi mới học công nghệ, mà phải lao vào học thì mới thành giỏi. Có người từng hỏi FPT: Các anh biết gì mà dám làm? Chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản: Cứ làm rồi mới biết, chứ không chờ biết rồi mới làm.

Và điều quan trọng nhất, làm gì thì làm cũng phải rất Việt Nam. Phải ngấm văn hóa Việt Nam, giữ cái căn cốt Việt nhưng đồng thời mở ra, kết nối và trò chuyện được với thế giới. Tôi ngưỡng mộ Bác Hồ bởi Bác vừa cực kỳ toàn cầu, vừa rất Việt Nam. Đi ra thế giới mà bắt chước họ thì thua ngay, chỉ khi là chính mình mới cạnh tranh được. Tôi đã học bài học đó khi ra nước ngoài tìm cơ hội mở rộng thị trường.

gom-chu-dau.jpg
Kế thừa tinh hoa của gốm Chu Đậu cổ, sản phẩm gốm Chu Đậu hiện đại được cả khách hàng trong nước và quốc tế đánh giá cao.

Theo ông, niềm tin hai chiều giữa Đảng và đội ngũ doanh nhân cần được xây dựng và củng cố thế nào để Nghị quyết số 68-NQ/TW thật sự đi vào cuộc sống? Và để biến doanh nhân thành “chiến sĩ trên mặt trận kinh tế”, chúng ta cần một “bộ tổng tham mưu” như thế nào để điều phối, kết nối các doanh nghiệp lớn-nhỏ, trong- ngoài nước, thay vì để họ mãi “đánh” kiểu du kích, manh mún?

Nghị quyết là khung, nhưng trước hết phải có niềm tin từ cả doanh nhân với Đảng và Đảng với doanh nhân. Niềm tin ấy không nằm ở những lời nói chung chung mà phải được chứng minh qua hành động. Doanh nhân phải tin rằng những cam kết trong Nghị quyết sẽ thật sự được thực thi, rằng họ không còn bị coi là “con buôn” bên lề. Ngược lại, Đảng cũng phải tin vào đội ngũ doanh nhân, coi họ là lực lượng kiến tạo chứ không chỉ là đối tượng quản lý. Nếu thiếu niềm tin hai chiều đó dù có ban hành bao nhiêu luật, văn bản cũng sẽ trở nên vô nghĩa.

Muốn có niềm tin ấy, không thể chỉ hô hào chung chung, mà phải bằng những câu chuyện thật, những việc làm cụ thể. Tôi nhớ thời kỳ đầu Đổi mới, Báo Nhân Dân có chuyên mục “Những việc cần làm ngay”, bắt đầu từ những chuyện nhỏ, rất đời thường, nhưng nó gieo lại niềm tin. Với Nghị quyết số 68-NQ/TW cũng vậy, cần truyền thông rõ ràng, chi tiết, cho người dân và doanh nghiệp thấy Nghị quyết đi vào cuộc sống thế nào. Niềm tin được bồi đắp từ đó. Và quan trọng nữa: Doanh nhân phải biết dùng chính Nghị quyết số 68-NQ/TW như một tấm lá chắn bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Nếu có văn bản pháp luật nào trái với tinh thần của Nghị quyết, thì phải lên tiếng, phải đấu tranh.

Tôi vẫn nhớ câu “phi thương bất phú” – muốn làm giàu thì phải buôn bán. Nhưng ở ta, doanh nhân không chỉ là người buôn bán đơn thuần mà còn được xem là “chiến sĩ” trên mặt trận kinh tế. Đã là chiến sĩ thì không thể nói chung chung; trong chiến tranh có quân chủ lực, có du kích, có binh chủng hiệp đồng. Trong kinh tế cũng vậy, doanh nghiệp lớn, nhỏ, khởi nghiệp, xuất khẩu, nội địa... tất cả phải phối hợp với nhau thì mới tạo sức mạnh tổng lực. Vấn đề là chúng ta phải có được “bộ tổng tham mưu” đủ uy tín và quyền lực để điều phối, để kết nối các lực lượng ấy.

Doanh nhân không thể chỉ mãi đánh kiểu “du kích”, manh mún, bè mảng, thuyền thúng. Muốn ra đại dương, đội ngũ doanh nhân phải được kết nối thành hạm độ.

Trân trọng cảm ơn ông!