Chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Ảnh: THÀNH ĐẠT
Chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Ảnh: THÀNH ĐẠT

Một thời tiểu thương Đồng Xuân-Bắc Qua

Hà Nội những năm 80 thế kỷ trước, khu chợ Đồng Xuân - Bắc Qua có lẽ là nơi chứng kiến sự va đập mạnh mẽ nhất giữa cơ chế kinh tế tập trung bao cấp với một khu vực “kinh tế phi chính thức”, nhiều tiểu thương hình thành được mạng lưới cung ứng hàng hóa theo hướng thị trường.

Nhiều loại hàng hóa khan hiếm qua tay tiểu thương tập trung về đây, rồi lại tỏa đi nhiều nơi theo quy luật cung - cầu, hiệu quả hơn hệ thống thương nghiệp quốc doanh.

Trong ký ức người Hà Nội thời đó, Đồng Xuân - Bắc Qua là một khu chợ có tình trạng an ninh - trật tự khá phức tạp, tập trung nhiều “con buôn”, kẻ lừa đảo, trộm cắp, móc túi. Nhưng đây cũng là nơi đầy sức hấp dẫn với đủ loại hàng hóa từ thiết yếu đến xa xỉ, từ hàng quốc doanh đến gia công... Còn với những tiểu thương Đồng Xuân - Bắc Qua, đó lại là một giai đoạn của sự xoay xở không ngừng, của chuyện làm ăn giữa lằn ranh hợp pháp - phi pháp.

NHỮNG CÂU CHUYỆN CŨ

Qua giới thiệu của ông Nguyễn Song Tùng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Đồng Xuân, chúng tôi tìm gặp được một vài tiểu thương Đồng Xuân - Bắc Qua từng hoạt động trong giai đoạn những năm cuối bao cấp, đầu Đổi mới.

Bà Nguyễn Thị Dung, nay đã 78 tuổi, vẫn kinh doanh gian hàng giày dép trong chợ. Theo lời bà, gia đình đã trải bốn đời làm ăn ở chợ Đồng Xuân: “Bà ngoại và mẹ tôi trước kinh doanh sạp vải. Còn tôi sau này theo ngành hàng giày dép cùng vợ chồng cô em gái. Những năm 80 ấy, cả Hà Nội thiếu thốn, nhưng nhà có sạp vải trong chợ thì cực kỳ khấm khá. Hồi ấy mỗi sạp hàng trong chợ giá trị ngang căn nhà mặt phố trung tâm...”.

screen-shot-2025-10-12-at-204530.png

Cũng đã ngoài 70 tuổi, bà Tâm, hiện là chủ sạp vải Tâm Đắc, kể về những ngày đầu khởi nghiệp: “Năm 1988, tôi nghỉ việc ở Trường trung học Y tế Hà Nội, một vị trí biên chế nhà nước ổn định, để ra chợ buôn bán”.

Cái sạp vải đầu tiên, tài sản khởi nghiệp của bà, được mua với giá 12,6 triệu đồng (số tiền rất lớn thời bấy giờ). Để có được số tiền đó, bà đã phải bán đi chiếc xe đạp rất giá trị và toàn bộ số vàng mà bố mẹ cho làm của hồi môn lúc cưới.

Cuộc sống buôn bán những ngày đầu cũng đầy gian khó. Bà Tâm bồi hồi nhớ lại: “Hồi đó, chợ xuống cấp lắm, làm gì có gian hàng khang trang như bây giờ. Cơm nấu sẵn mang đi, treo cặp lồng lủng lẳng trên cái đinh đóng tạm vào tường. Có hôm, mở ra đã thấy kiến bâu đầy mà vẫn phải ăn cho qua bữa”. Khó khăn là vậy, nhưng thị trường vận hành theo một nghịch lý thú vị. “Hàng hóa cực kỳ khan hiếm, nhưng nếu tìm được nguồn hàng thì bán ra rất dễ và được giá. Thiếu thốn đủ thứ, nên hễ có hàng là khách mua ngay, không cần mời chào nhiều”.

Để tìm được lời giải nguồn hàng, các sạp vải như của bà Tâm phải tự tạo dựng những “con đường riêng”. Bà tìm cách kết nối với các đầu mối ở Đồng Kỵ (Bắc Ninh), một số ít hàng cao cấp hơn thì phải cất công vào tận Sài Gòn...

Rồi từ việc bán lẻ từng 5-10m vải cho khách vãng lai từ Phú Thọ, Hòa Bình, bà dần dần xây dựng được mạng lưới khách buôn rộng khắp miền bắc và miền trung. Khách hàng của bà là tiểu thương chợ tỉnh như Tam Bạc (Hải Phòng), chợ Rồng (Nam Định), hay các xưởng gia công lớn ở Cổ Nhuế, Phú Xuyên... Thậm chí, chợ vải Phùng Khắc Khoan (nơi bán lẻ nức tiếng Hà Nội khi đó), cũng chủ yếu là “nhặt” lại hàng từ các sạp bán buôn ở Đồng Xuân.

Nói về chuyện tìm nguồn hàng thời bao cấp, bà Trần Thị Thu, kinh doanh mặt hàng cơ khí, kể lại: Từ lúc còn phụ giúp mẹ, để có phụ tùng xe đạp bán, bà phải dậy sớm đi thu mua ở các làng nghề như làng Vó (chuyên làm van đồng), làng Đa Hội (làm nan hoa). Bà vẫn không quên cảnh phải giấu từng bó nan hoa, từng chiếc van xe đạp vào người để qua mắt lực lượng kiểm soát. Những món phụ tùng gia công đó được bán để thay thế, sửa chữa cho những chiếc xe đạp hiệu Phượng Hoàng, Peugeot... rất khan hiếm thời bấy giờ. “Đổi lại, chỉ chừng một tháng chạy chợ giúp mẹ tôi đã có thể tiết kiệm được số tiền đủ mua 2 chỉ vàng”, bà Thu cho biết.

mot-dong-chay-01.jpg
Bà Nguyễn Thị Dung kể những câu chuyện làm ăn buôn bán của gia đình mình thời bao cấp ở khu chợ Đồng Xuân - Bắc Qua. Ảnh: THANH HUYỀN

MẠCH LƯU THÔNG HÀNG HÓA

Những câu chuyện cũ của tiểu thương Đồng Xuân - Bắc Qua là lát cắt tiêu biểu cho một dòng chảy kinh tế thời bao cấp, nơi giới tiểu thương tạo dựng nên huyết mạch của nền kinh tế phi chính thức, một hệ thống vận hành song song, linh hoạt và bù đắp hiệu quả những thiếu hụt của hệ thống phân phối quốc doanh.

Trước năm 1986, về mặt lý thuyết, khu chợ Đồng Xuân - Bắc Qua do nhà nước quản lý và các tiểu thương là “xã viên hợp tác xã”, phải hoạt động trong khuôn khổ. Tuy nhiên, đó chỉ là lớp vỏ. Thực tế, nguồn hàng từ hệ thống phân phối mậu dịch vừa khan hiếm, vừa kém chất lượng, không đủ để đáp ứng nhu cầu. Sự sống còn của khu chợ phụ thuộc hoàn toàn vào một “thực thể ngầm” - thị trường “chợ đen” sôi động ngay bên trong và chung quanh nó, nơi quy luật cung - cầu vận hành.

Để duy trì dòng chảy hàng hóa, các tiểu thương đã kiến tạo nên mạng lưới cung ứng đa tầng, len lỏi qua các hàng rào kiểm soát. Nguồn hàng của họ đến từ khắp nơi. Và, một nguồn quan trọng lại đến từ chính sự rò rỉ của hệ thống phân phối quốc doanh, khi hàng hóa bị tuồn ra từ các kho mậu dịch hay trong quá trình vận chuyển. Song song đó, tem phiếu, vốn là công cụ phân phối của nhà nước, lại trở thành một dạng “tiền tệ” thứ hai trên thị trường tự do và tiểu thương là những người trung gian biến những tờ giấy này thành hàng hóa thực tế để bán lại.

screen-shot-2025-10-12-at-204625.png

Nhưng táo bạo hơn cả là những chuyến buôn liên tỉnh. Bất chấp chính sách “ngăn sông cấm chợ”, nhiều người vẫn tổ chức những chuyến đi đầy mạo hiểm về nông thôn thu mua lương thực, hàng thủ công, rồi tìm cách vận chuyển về Hà Nội. Và ở đỉnh cao của thị trường ngầm này, chợ Đồng Xuân còn là nơi tập kết hàng “xách tay” từ nước ngoài về hay hàng nhập lậu qua biên giới.

Bằng những cách thức đó, các tiểu thương đã không chỉ đơn thuần là người bán hàng. Họ chính là những nhà quản lý chuỗi cung ứng giữ cho dòng chảy kinh tế không bị tắc nghẽn. Họ đã đáp ứng nhu cầu thực tế của người dân, từ cái ăn, cái mặc đến những vật dụng thiết yếu.

VƯỢT LÊN TỪ THÂN PHẬN “CON BUÔN”

Công cuộc Đổi mới được chính thức khởi xướng vào năm 1986 không phải là tiến trình tạo ra một nền kinh tế thị trường từ con số không. Đó là sự thừa nhận và hợp pháp hóa một thực tế kinh tế mà các tiểu thương, đặc biệt là ở những trung tâm như chợ Đồng Xuân, đã âm thầm xây dựng và duy trì trong suốt nhiều năm.

Sự thay đổi lớn nhất đối với tiểu thương là sự chuyển đổi về địa vị pháp lý. Từ những người bị coi là “con buôn” phải hoạt động lén lút, luôn đối mặt với nguy cơ bị tịch thu hàng hóa, họ được công nhận là “hộ kinh doanh cá thể”, những “doanh nhân” hợp pháp. Chính sách Đổi mới khi gỡ bỏ rào cản “ngăn sông cấm chợ” đã tạo ra một cú huých cho hoạt động kinh doanh của họ bùng nổ.

Những kỹ năng được rèn giũa trong thời kỳ gian khó nhất đã trở thành lợi thế cạnh tranh trong buổi đầu của nền kinh tế mới. Sự nhạy bén với thị trường vốn được mài sắc qua nhiều năm dò đoán nhu cầu của người tiêu dùng, giúp nhiều tiểu thương đi trước một bước so với các đơn vị kinh tế nhà nước vốn quen tư duy bao cấp.

Mạng lưới quan hệ, những kênh cung ứng và bán hàng được xây dựng trong bóng tối nay trở thành những kênh phân phối hiệu quả, nhanh chóng kết nối sản xuất với tiêu dùng trên quy mô lớn. Và trên hết, tinh thần bền bỉ, khả năng xoay xở và chấp nhận rủi ro đã tạo nên một thế hệ “doanh nhân” không ngại khó khăn, dám nghĩ, dám làm. Nhìn lại, cách làm ăn của tiểu thương thời bao cấp vượt xa hoạt động mua bán đơn thuần. Họ có ý chí làm giàu, mang đến sức cạnh tranh góp phần phá vỡ sự độc quyền của thương nghiệp quốc doanh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa và gieo những hạt mầm đầu tiên cho tư duy kinh tế thị trường trong xã hội.