Tính đến hết năm 2024, diện tích cây ăn quả cả nước đạt hơn 1,3 triệu héc-ta, trong đó, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ chiếm 21%, đứng thứ hai cả nước về diện tích.
Năm 2015, toàn tỉnh Sơn La chỉ có khoảng 23.000 ha cây ăn quả với các giống cây truyền thống được trồng từ nhiều năm trước như: Na, nhãn, xoài...
Giống cây thoái hóa, chất lượng kém, giá bán không ổn định, nên người dân tự chặt phá để trồng cây ngắn ngày. Trước tình hình đó, ngành nông nghiệp tỉnh đã đồng hành, chung tay cùng người dân cải tạo vườn tạp, từng bước chuyển đổi sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao.
Tốc độ phát triển cây ăn quả của Sơn La rất ấn tượng và nổi bật. Chỉ trong vài năm Sơn La đã trở thành “thủ phủ cây ăn quả” của miền bắc và là tỉnh có diện tích cây ăn quả lớn thứ hai cả nước.
Giai đoạn 2016-2025, tỉnh đã chuyển đổi và trồng mới khoảng 61.500 ha, nâng tổng diện tích cây ăn quả lên 85.050 ha, sản lượng ước đạt 510.000 tấn, tăng 332% so với năm 2016.
Đáng chú ý, nhiều loại cây ăn quả chủ lực ghi nhận mức tăng năng suất và sản lượng vượt bậc. Đơn cử, diện tích xoài tăng 374% (chiếm 17% diện tích xoài cả nước), sản lượng tăng 808%; diện tích cây có múi như: Cam, chanh, bưởi tăng 325%, sản lượng tăng tới 860%,...
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, trong 14 loại cây ăn quả chủ lực theo Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và năm 2030 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ), nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ có tới 12 loại quả, trong đó, sáu loại quả chiếm tỷ trọng từ 21,8-61,9% tổng diện tích của cả nước gồm: Cam, bưởi, vải, nhãn, xoài, na.
Thời gian qua, các tỉnh tại đây đã hình thành nhiều vùng cây ăn quả tập trung, với các giống đặc sản địa phương có giá trị hàng hóa cao như: Vải thiều Lục Ngạn (Bắc Ninh); nhãn Sông Mã, xoài Yên Châu, mận Mộc Châu, Vân Hồ (Sơn La); na Chi Lăng (Lạng Sơn)…
Mặc dù sản xuất cây ăn quả tại vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song vẫn tồn tại không ít hạn chế, cản trở mục tiêu nâng cao giá trị, phát triển bền vững và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, quy mô sản xuất cây ăn quả ở khu vực này còn khá nhỏ lẻ, phân tán, khó khăn cho công tác đầu tư, quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tiêu thụ sản phẩm. Giống địa phương chiếm tỷ lệ lớn, trong đó nhiều giống chất lượng thấp, thoái hóa, cho nên chất lượng, mẫu mã sản phẩm không đồng đều.
Điều kiện hạ tầng giao thông của vùng có nhiều cải thiện nhưng nhìn chung còn khó khăn, hạn chế cho việc vận chuyển tiêu thụ nông sản. Cơ sở bảo quản, chế biến quả chủ yếu quy mô nhỏ, số lượng ít, thiếu thiết bị công nghệ.
Tổ chức liên kết sản xuất còn yếu và chưa hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư phát triển vùng nguyên liệu mà chủ yếu thu gom qua thương lái, gây khó khăn trong quản lý truy xuất nguồn gốc, chất lượng sản phẩm không đồng đều.
Để phát huy tiềm năng, khai thác lợi thế, sản xuất cây ăn quả tại vùng cần được tổ chức lại theo hướng hiện đại, bài bản và bền vững.
Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Huỳnh Tấn Đạt cho biết, thời gian tới, vùng cần phải đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất cây ăn quả; quan tâm phát triển các giống cây ăn quả đặc sản có lợi thế; ưu tiên công tác bình tuyển, phục tráng các giống bản địa, đặc sản địa phương.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư, chuyển đổi cơ cấu giống cây ăn quả phù hợp theo hướng chất lượng cao, năng suất tốt, chống chịu sâu bệnh, khai thác, phát huy tốt lợi thế điều kiện tự nhiên của địa phương, thích ứng biến đổi khí hậu; ứng dụng công nghệ số trong quản lý, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, mã số vùng trồng và nâng cao năng lực bảo quản, chế biến.
Nông dân, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cần hợp tác để tạo các chuỗi liên kết chặt chẽ, thực chất, hiệu quả, giúp nông dân tiếp cận công nghệ, giảm chi phí sản xuất và mở rộng, phát triển thị trường cho sản phẩm tuần hoàn.