Với đam mê và tâm huyết, ở phường Thống Nhất, tỉnh Phú Thọ, ông Bình đã xây dựng nên không gian văn hóa Mường, có nhà Lang, cồng chiêng cổ, nông cụ, nhạc cụ… và cả những lớp học truyền dạy văn hóa Mường cho thế hệ trẻ.
Bắt đầu từ đam mê…
Thời trẻ, ông Bình làm hướng dẫn viên cho Công ty Du lịch Hòa Bình. Qua một thời gian ông nhận thấy các hiện vật của người Mường thế hệ cha ông đang dần bị mai một. Từ đó, ông bắt đầu có ý thức sưu tầm để lưu giữ cho con cháu đời sau.
Mỗi lần nghe thấy có ai đó có hiện vật của người Mường là ông lại tìm cách vận động, thuyết phục để mua sưu tầm, từ bát, đĩa gốm, nồi niêu, xoong chảo cho đến những chiếc cày, bừa,…
Cứ miệt mài như vậy suốt nhiều năm trời cho đến năm 2014, sau nhiều năm ấp ủ, ông Bình đã xây dựng bảo tàng tư nhân để trưng bày Di sản Văn hóa Mường, được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hòa Bình (cũ) đồng ý và ra quyết định cấp phép hoạt động. Đây là một trong những bảo tàng tư nhân đầu tiên ở khu vực Tây Bắc.
Bảo tàng được xây dựng như một làng Mường thu nhỏ, gồm sáu ngôi nhà sàn cổ được phục dựng từ nhiều bản làng trong tỉnh. Trong đó, có bốn ngôi nhà tái hiện cấu trúc xã hội của người Mường cổ: Nhà Lang (tầng lớp quý tộc), nhà Ậu (người hầu cận), nhà Noóc (dân thường) và nhà Noóc Trọi (tầng lớp bần cùng xã hội). Mỗi nhà là một mảnh ghép, tái hiện rõ ràng những khác biệt về vị thế, vật dụng sinh hoạt và không gian thờ cúng.
Hai nhà còn lại được bố trí làm khu trưng bày chuyên đề, nơi gìn giữ các hiện vật đặc sắc theo từng mảng văn hóa: Nhạc cụ, trang phục, lễ hội, tín ngưỡng… Mọi thứ ở đây đều được ông Bình phục dựng theo nguyên mẫu của người Mường cổ.
Gian bếp ám khói trong nhà Noóc, ban thờ đặt chính giữa nhà Lang, chiếc ché đựng rượu cần nằm lặng lẽ bên góc cột gỗ già... Mỗi vật dụng ở đây đều có một đời sống riêng, có câu chuyện riêng, như thể vừa được mang từ một bản Mường nào đó về trước lúc khách đến.
Điều đặc biệt ở bảo tàng không chỉ nằm ở số lượng hiện vật, mặc dù nơi đây đang lưu giữ hơn 6.000 món đồ gốc, có niên đại trải dài từ thời tiền sử đến hiện đại; mà điều “níu chân” du khách đến xem nhiều lần chính là câu chuyện về “hồn cốt” của từng hiện vật.
Từ một chiếc trống đồng Heger II không chỉ là đồ cổ mà còn là âm vang của một xã hội Mường xưa, có tổ chức, có nghi lễ, có vị thế riêng trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Hay một bộ váy áo dân tộc, một chiếc gùi mây, một chiếc túi…, tất cả đều gợi nên những chân thực về đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào Mường.
Những bộ sưu tập ở đây được phân loại kỹ lưỡng, sắp xếp theo chủ đề: Từ nông cụ, ngư cụ, nhạc cụ, đồ đan lát, đến lễ hội, tín ngưỡng, trang phục truyền thống, nhưng cách bố trí không khô cứng theo kiểu viện bảo tàng thông thường; mỗi vật dụng đều có thuyết minh, xuất xứ, như một sự ghi nhớ của người làm bảo tàng đối với cộng đồng…
Đây là cách ông Bình bảo tồn di sản không như đồ trưng bày, mà như ký ức của từng gia đình Mường còn sót lại.
... Đến giữ gìn, lan tỏa
Trong không gian văn hóa Mường, ông Bình cho biết: Chiêng Mường Hòa Bình là một loại hình văn hóa độc đáo, chứa đựng những linh thiêng huyền diệu trong văn hóa dân gian và trong đời sống của người Mường.
Chiêng Mường được xem là báu vật, là hồn thiêng của dân tộc Mường. Chiêng Mường có mặt ở tất cả các gia đình người Mường, trong đời sống tinh thần, đời sống sinh hoạt hằng ngày từ hàng nghìn năm nay.
Hay là lịch Đoi cũng vậy, là bộ lịch cổ tri thức dân gian, người Mường đã quan sát sự vận động của mặt trăng, dựa vào đặc tính của trăng trong chu kỳ tháng, cũng như sự vận chuyển của sao Đoi để phân định thời gian, ngày, giờ, tuần, tháng, năm và chế định ra 12 thẻ tre, còn gọi là lịch Tre, mỗi thẻ tre là một tháng, trong đó có số ngày trong tháng, ghi theo lối khắc gạch những ngày tốt, xấu, ngày mưa, ngày gió, ngày cá, ngày thú, ngày đại cát hay ngày xích khẩu… để mọi người trông vào đó mà đi làm ăn, làm nhà mới, cưới vợ, gả chồng hay công to, việc lớn trong Mường.
Năm 2016, chiêng Mường Hòa Bình đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và lịch Đoi được công nhận vào năm 2022. Điểm nhấn chính trong bảo tàng là bộ sưu tập cồng chiêng cổ với hơn 100 chiếc đủ loại, đủ kích cỡ, có những chiếc đường kính tới 70 cm.
Không chỉ để trưng bày, nhiều chiếc chiêng còn được đánh lên trong các buổi trình diễn, lễ Mo, hay lớp học cồng chiêng ngay tại bảo tàng.
Và cũng tại bảo tàng, ông Bình mở lớp cồng chiêng, dạy cách đánh, cách cảm, cách hiểu. Hiện tại có nhiều học sinh, sinh viên, người Mường xa quê, thậm chí cả khách nước ngoài, ai cũng có thể học, đánh thử chiêng và tìm hiểu về từng loại lễ phục…
Chính từ những buổi học đó, nhiều hạt mầm văn hóa mới đã được phát triển. Có em trở thành người biểu diễn chiêng tại các sự kiện, có người tiếp tục sưu tầm hiện vật, có người về lại bản làng dạy trẻ em hát dân ca Mường.
Không dừng ở khu vực chung quanh địa phương, ông Bình còn mang văn hóa Mường đi xa. Năm 2015, ông cùng cộng sự đem lễ hội “Khuống mùa” và trích đoạn sử thi “Đẻ đất, đẻ nước” đến Băng Cốc (Thái Lan).
Đầu năm 2024, ông Bình huy động hai xe tải chở hàng trăm hiện vật vào địa đạo Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh), rồi tiếp tục ra chùa Bái Đính (Ninh Bình) trình diễn văn hóa Mường giữa mùa lễ hội.
Mỗi chuyến đi là “một cuộc vận chuyển ký ức” và mỗi hiện vật được đặt xuống là một mảnh hồn Mường lại hiện ra, khiến cho người xa quê ấm lòng, người chưa từng biết Mường cũng bồi hồi.
Nhờ không gian mở, cách trưng bày sống động và triết lý phục vụ cộng đồng, mỗi năm bảo tàng đón từ 5.000 đến 7.000 lượt khách, trong đó thu hút số lượng lớn là học sinh, sinh viên, người nghiên cứu và đông đảo khách du lịch quốc tế.
Đáng chú ý, bảo tàng đón khách hoàn toàn miễn phí. Ông Bình cho biết: “Tôi mở nơi này để đồng bào Mường có chỗ đến, chỗ nhớ, người lạ đến để tìm hiểu, nghiên cứu. Tôi chỉ là người được trao gửi trọng trách giữ gìn”.
Bảo tàng cũng gắn kết với cộng đồng bằng những trải nghiệm thực tế: Khách có thể giã gạo, dệt vải, nấu cơm lam, nghe chiêng và học hát dân ca… Ngay cả những món ăn phục vụ trong khuôn viên bảo tàng cũng do bà con Mường tại chỗ thực hiện.
Bằng cách ấy, bảo tàng không chỉ lưu giữ hồn cốt văn hóa Mường, mà còn góp phần tạo sinh kế bền vững cho chính cộng đồng bản địa. Bảo tàng Di sản văn hóa Mường không chỉ là nơi trưng bày các hiện vật mà đó còn là: “Một cuộc níu giữ văn hóa” từ thời cha ông với các thế hệ người Mường về sau, nhất là thế hệ trẻ.