Đến nay, danh tiếng, thương hiệu của ba làng nghề trên bản đồ du lịch tỉnh Cao Bằng đã được hình thành, phát triển. Các làng nghề thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Qua đó, giới thiệu bản sắc địa phương đến đông đảo du khách và mang lại thu nhập ổn định cho nhiều gia đình.
Bản sắc trong những tờ giấy bản
Xóm Dìa Trên có 64 gia đình, với gần 300 người. Nơi đây có nghề làm giấy bản truyền thống đã lưu truyền qua nhiều thế hệ. Giấy bản Dìa Trên được làm thủ công từ vỏ cây dó.
Sản xuất ra tờ giấy bản phải trải qua các công đoạn, ngâm, giã vỏ cây, lọc bột, seo khuôn, phơi giấy…, công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn và khéo léo. Tờ giấy bản bền, dai, mầu trắng ngà tự nhiên, được sử dụng trong viết chữ Hán Nôm, in sách cổ, hay trang trí, thủ công mỹ nghệ, hoặc làm vàng mã.
Ông Nông Văn Kỳ, Trưởng xóm Dìa Trên cho biết, trong xóm có 55/64 gia đình làm giấy bản. Đây là nghề truyền thống, lưu truyền qua nhiều đời, bà con làm giấy lúc nông nhàn, góp phần cải thiện, nâng cao thu nhập bên cạnh làm nông nghiệp.
Không những vậy, Ban quản lý Công viên địa chất Non nước Cao Bằng đã hỗ trợ, tư vấn, tập huấn phát triển du lịch cộng đồng, đến nay, trong xóm hình thành ba điểm tham quan, trải nghiệm làm giấy bản tại ba hộ.
Thông qua phát triển du lịch cộng đồng, đời sống của ba gia đình này đã được cải thiện, từng bước nâng cao thu nhập, chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang làm dịch vụ du lịch.
Tại điểm tham quan, trải nghiệm làm giấy bản của gia đình chị Nông Thị Kính, du khách Ngọc Anh đến từ thủ đô Hà Nội cho biết, làm giấy bản rất thú vị, khá mệt, nhưng rất vui, chủ nhà nhiệt tình, nồng hậu, đây là hoạt động trải nghiệm rất đáng nhớ.
Chị Nông Thị Kính, chủ nhà ở điểm tham quan, trải nghiệm xóm Dìa Trên cho biết, mỗi ngày, chị đều làm giấy bản phục vụ du khách tham quan, trải nghiệm.
Bên cạnh đó, gia đình chị Kính còn làm quạt, sổ, câu đối từ giấy bản, bán cho du khách có nhu cầu. Sản phẩm giấy bản khổ lớn, hiện được đối tác ở Hà Nội thu mua, bán cho một số cơ sở sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ và xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật Bản, mô hình này đã mang lại thu nhập từ 70 đến 80 triệu đồng/năm cho gia đình.
Hiện tại, bình quân mỗi ngày, làng nghề giấy bản xóm Dìa Trên đón từ ba đến năm đoàn khách, vào những dịp nghỉ lễ, dịp cuối tuần, những đoàn khách đông từ 30 đến 50 người đến tham quan, trải nghiệm đã tạo nên sức sống, khung cảnh nhộn nhịp trong làng nghề.
Thắp sáng “ngọn lửa” làng nghề
Theo Ban quản lý Công viên địa chất Non nước Cao Bằng, làng nghề giấy bản Dìa Trên cùng làng hương Phja Thắp, làng rèn Phúc Sen đã được khảo sát, đưa vào các tuyến du lịch của Công viên địa chất.
Trong hành trình tham quan, khám phá cảnh đẹp công viên, nhiều du khách đã tìm đến những làng nghề truyền thống để trải nghiệm chiều sâu văn hóa độc đáo. Để phát triển du lịch làng nghề, Ban quản lý đã tổ chức các lớp tập huấn nâng cao kỹ năng làm du lịch cộng đồng, hướng dẫn thuyết minh cho bà con.
Đồng thời, tổ chức tập huấn, hướng dẫn người dân các làng nghề cải tiến mẫu mã, bao bì sản phẩm, tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, ấn tượng với du khách.
Ông Vi Trần Thùy, Giám đốc Ban quản lý Công viên địa chất Non nước Cao Bằng cho biết: Ban quản lý và các chuyên gia đã định hướng phát triển du lịch làng nghề gắn với bảo tồn di sản và cải thiện, nâng cao thu nhập cho đồng bào các dân tộc.
Đến nay, định hướng đó đã được cụ thể hóa trong thực tiễn. Tại xóm Dìa Trên, các công đoạn sản xuất giấy bản vừa là bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo, vừa được sản xuất thành một số mặt hàng lưu niệm ý nghĩa khi đó là những tờ giấy bản được chính tay du khách làm ra.
Tại làng hương Phja Thắp, bên cạnh sản phẩm hương Phja Thắp truyền thống, hộ sản xuất của anh Hoàng Văn Thủy đã tìm tòi, thử nghiệm sản xuất thành công các sản phẩm hương nụ, hương nén thảo dược thắp khi ngồi thiền định, có tác dụng thư giãn, thanh lọc không khí, xua đuổi côn trùng được nhiều du khách ưa chuộng, lựa chọn mua về sử dụng và làm quà tặng.
Thông qua phát triển du lịch làng nghề tại Cao Bằng đã tạo ra những sản phẩm du lịch mới phục vụ du khách, đồng thời, tạo thêm sinh lực, sức sống, giúp các làng nghề truyền thống được lưu giữ và bảo tồn. Sản phẩm của các làng nghề được nhiều du khách biết đến, từng bước mở rộng vươn xa tại các thị trường tiêu thụ.