Minh họa | NGUYỄN MINH
Minh họa | NGUYỄN MINH

Chốn lạ-Đường quen

“Thuở em đi một mình trên chuyến tàu đêm”

Nhà thơ Ý Nhi có bài thơ “Ký ức” mà tôi rất thích. Nó như lời tự sự đau đáu. Cảm xúc trào ra một cách tự nhiên, không nệ vào câu chữ hay ẩn dụ sâu xa nào.

Hình ảnh trong bài thơ chầm chậm như những thước phim, được dựng song song quá khứ và hiện tại, với những ám ảnh nội tâm giằng xé. Tôi như nghe tiếng một đoàn tàu đi về đâu chẳng rõ, bánh sắt ken két xiết đường ray, nghiến vào tận tâm can: “... Thuở em mở trang sách như mở từng cánh cửa/ về miền tuyết/ về miền hoa bách hợp/ miền thảo nguyên, miền mịt mù hoang mạc/ miền hạnh phúc lớn lao/ chia cách lớn lao.../ Thuở em đi một mình/ trên chuyến tàu đêm/ qua những nhà ga hoang lạnh/ không ai tiễn đưa/ không ai chờ đón/ lòng vỡ òa/ gặp ngôi sao sáng xanh ngoài ô cửa...”. Và tôi nhìn thấy tôi trong những câu thơ ấy, non dại, cô đơn, mơ mộng, mang theo hành trang bồng bềnh hy vọng và đôi khi nặng trĩu thất vọng.

Thời thiếu nữ, đã bao lần tôi đi một mình trên những chuyến tàu từ Hà Nội xuống Hải Phòng thăm mẹ vài ngày rồi lại ngược về. Tàu xưa chật chội, người và hàng hóa lèn bên nhau, ngột ngạt đủ thứ mùi trộn lẫn, tạo nên một “mùi tàu” nồng nã đặc trưng. Hai hàng ghế gỗ cứng, từng đôi áp lưng, không đánh số, mỗi ghế ba chỗ. Ai sớm thì chọn chỗ tốt, gần cửa sổ, xa buồng vệ sinh. Ai muộn thì ngồi ghế nhựa, hay lót dép ngồi dọc lối đi hẹp. Những người muộn nhất sẽ phải đứng chồn chân đợi, nếu có hành khách xuống ga xép, mới được ngồi. Tàu chậm, ga nào cũng dừng. Quãng đường hơn một trăm cây số mất ít nhất bốn tiếng, có khi còn lâu hơn vì phải chờ tránh tàu. Tới mỗi ga, đội hàng rong ào lên, hoặc rao ời ời ngay dưới cửa sổ, mời mua những đồ ăn thức uống dân dã. Nào là xôi nén giò chả, bánh khúc, bánh đậu xanh, ngô luộc, bánh đa, nào là hoa quả, chè tươi, trà mạn... Tôi thường cố gắng ra ga sớm để “xí” chỗ ngồi gần cửa sổ, vừa thoáng hơn, lại có thể ngắm cảnh vật bên ngoài. Vẫn là quãng đường ấy, nhưng lần nào tôi cũng thấy có gì đó mới mẻ. Tôi luôn mang theo một cuốn sách, ngắm cảnh chán thì giở ra đọc. Đôi khi tôi chẳng nghĩ gì nhiều, chỉ thầm đếm những cái cây ven đường, thay trò bói hoa: “Yêu, không yêu, yêu, không yêu”.

Một lần, tôi đi chuyến tàu sáu giờ tối, xuất phát từ ga Hải Phòng. Nếu không có gì thay đổi, nó sẽ tới Hà Nội khoảng mười giờ đêm. Ra Giêng, trời vẫn lạnh thấu xương. Tôi kiếm một chỗ ngồi cạnh cửa sổ, giữa toa. Đoàn tàu ấy không rõ vì sao mất điện ở các toa. Lúc rời ga, trời sập tối, nhân viên nhà tàu đến từng toa, treo một cái đèn bão lên giá để hành lý. Đèn tỏa ánh sáng lom đom ngay gần chỗ tôi. Tàu lắc lư khiến đèn cứ đu đưa như chực rơi xuống. Tàu đêm đỡ ồn ã hơn ban ngày. Mọi người ngồi chen vai, nhẫn nại. Trời lạnh nên chật lại hóa ra ấm hơn. Chẳng ai trò chuyện gì mấy, vì tiếng tàu xình xịch rất ồn. Nhiều người tranh thủ chợp mắt. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa kính mờ, mở he hé phía trên cho thoáng, chỉ thấy những bóng cây đen thẫm bên đường lừng lững vuột qua, những ánh đèn le lói hắt ra từ các ngôi làng. Tôi xuôi ngược tuyến tàu này từ hồi còn bé xíu. Xưa tôi thường đi tàu với mẹ hoặc cô Dung, em gái út của mẹ. Hồi bé, tôi cứ tưởng những cái cây đang chạy theo tàu. Tôi thích nhất lúc tàu qua cầu Long Biên, nhìn những nhịp cầu vươn lên duyên dáng; dõi ra bãi ngô xanh mênh mang và sông Hồng cuộn chảy. Tôi ngồi trong lòng mẹ, có lần phấn khích nhoài người ra cửa sổ, làm mẹ sợ hoảng hồn. Điểm thứ hai mà tôi thích là lúc tàu dừng lâu lâu ở ga Hải Dương. Thể nào tôi cũng được ăn một cặp bánh dầy giò. Đi với cô Dung thì khỏi phải nói, không chỉ bánh dầy giò, cô sẽ mua cho con Na bất cứ thứ gì nó muốn...

Tàu dừng ở một ga xép, ba người ngồi ghế đối diện cùng xuống. Tôi chợt thấy luồng ánh sáng của chiếc đèn bão chao đảo mạnh, rồi một bóng đàn ông cao lớn len vào ngồi đối diện. “Suýt thì rơi cái đèn, hú vía! Xin lỗi cả nhà ạ!” - Người mới đến lẩm bẩm, câu đầu tự nói với mình, câu sau nói to hơn, để mọi người nghe thấy. Mấy người ngồi quanh lao xao: “Tại chú cao quá, chứ thấp bé như chúng tôi, chả sợ!”. “Ờ, mà đèn đóm treo thế nguy hiểm ra phết!”. “Chả treo đấy thì treo đâu!”... Một cuộc bàn tán nho nhỏ nổ ra xoay quanh cái đèn, hòa vào tiếng xình xịch của đoàn tàu khiến khoang tàu sôi nổi hẳn lên. Người mới đến chỉ cười, không góp câu nào nữa. Còn tôi, theo thói quen, lắng nghe và quan sát dù ánh sáng khá lờ mờ. Người đàn ông cao lớn mà cái ghế thì nhỏ, lại có một cặp vợ chồng trung niên vào sau, khiến anh ngồi gò bó, chân tay lóng ngóng không biết nhét đâu cho vừa. Tôi ý tứ co chân lại, để anh có thể duỗi chân thoải mái hơn một chút. Anh mỉm cười, khẽ nói: “Cảm ơn cô bé nhé!”. “Có gì đâu ạ!” - Tôi đáp. Lúc ấy tôi mới để ý, anh khoảng gần ba mươi tuổi, đeo kính cận, miệng cười tươi, có vẻ thư sinh nhưng mặc một cái áo khoác kiểu Nato mầu xanh lá, nhiều túi hộp, mốt của cánh trai thành phố thời ấy, lãng tử mà hầm hố. “Em đi chuyến muộn một mình, không sợ à?”. Anh bắt chuyện. “Em quen rồi. Đi muộn để tranh thủ thời gian anh ạ”. “Có ai đón em không?“. “Không ạ. Em gửi xe đạp gần ga.” “Em là sinh viên à?”. Thuở mười tám đôi mươi, tôi khá đề phòng mỗi khi có anh nào hỏi han dọc đường, nên bịa: “Em dạy mẫu giáo”. Anh cười thành tiếng: “Ái chà, cô giáo mà trẻ thế!”. Chúng tôi cũng không trò chuyện gì nhiều, vì tàu chạy rất ầm. Co chân mãi, tôi ê ẩm hai đầu gối, nhưng ngại, không chuyển tư thế thoải mái hơn được. Tôi đành nhắm mắt, cố ngủ một lúc, thì anh gọi khẽ: “Này, cô bé, em duỗi chân thẳng ra, hay gác lên đây cho đỡ mỏi”. Nói rồi anh lồng cồng đứng dậy, khom khom, khẽ khàng lách qua những người bên cạnh, đi về phía đầu toa. Ngoài cửa sổ, trăng thượng tuần vằng vặc sáng, trôi lững lờ, ru đoàn tàu lừ đừ vừa đi, vừa ngủ gật. Tôi duỗi chân, dễ chịu hơn, bắt đầu thiếp đi.

Tiếng tàu rú còi vào ga, rồi giật “uỳnh” một cái khiến tôi bừng tỉnh. Ghế đối diện chỉ có hai vợ chồng bác trung niên. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy trên nóc nhà ga dòng chữ mầu đỏ quen thuộc “Ga Hải Dương”. Sân ga đông đúc hơn hẳn những ga xép. Người lên xuống ra vào tấp nập. Tiếng gọi nhau í ới, tiếng rao hàng lảnh lót, tạo thành bản hòa tấu âm thanh có nhịp điệu hẳn hoi. Bụng tôi ngon ngót. “Ai xôi nén bánh dầy giò chả đơiiii!”. Tôi nhoài người gọi: “Chị xôi nén bánh dầy ơiii!”. Một chị cắp thúng đi tới bên cửa sổ của tôi. “Bán em một cặp dầy giò ạ!”. Chị thoăn thoắt cắt khoanh giò nhỏ bằng miệng chén, kẹp vào bánh. Tôi giở ba lô đang ôm trước ngực để lấy tiền trả chị, thì thấy khóa ba-lô mở toang hoác, không tìm thấy ví đâu. Toàn bộ giấy tờ và số tiền mẹ cho đã bay mất từ lúc nào. Tôi hoảng hốt kêu: “Thôi chết! Mất hết rồi!” và tức tưởi òa khóc. Khoang tàu nhộn nhạo, mỗi người một câu, thương cảm: “Khổ thân con bé!”. “Sểnh ra là ăn cắp như rươi!”. “Sao sơ hở thế cháu ơi!”. “Ai cũng ngủ lăn lóc, biết đâu mà sơ với hở!”... Tôi hoang mang, nước mắt lã chã. Bác gái trung niên ân cần an ủi: “Nín đi cháu. Của đi thay người, cháu ạ”. Bác trai bỗng thốt lên: “Cái cậu cao cao nãy ngồi đây đâu rồi nhỉ?”. Mọi người lại ào ào: “Ờ, đúng rồi, cậu ấy xuống ga lúc nào, có ai nhìn thấy không?”. “Hành lý của cậu ta không ở đây!”. “Chuồn rồi. Trông người như thế mà gian, kinh thật!”...Tai tôi ù đặc, không nghe thấy gì nữa. Tàu chầm chậm rời ga. Tiếng còi rền lên như khóc.

Hơn mười giờ đêm, tàu về tới ga Hà Nội. Túi rỗng, lòng nặng trĩu, rối bời, tôi ra nhà người bạn ở Đình Ngang, lấy xe đạp về bà ngoại. Lại không may, tôi vừa đi được một đoạn thì xe xịt lốp, đành lủi thủi dắt bộ. Đang không biết tính sao, chợt tôi nghe tiếng gọi: “Cô bé ơi! Cô giáo ơi!”. Tôi giật mình ngoái nhìn, luống cuống, e sợ khi nhận ra cái dáng cao lớn khoác áo Nato ấy. Anh sải bước tới, sốt sắng hỏi: “Xe em sao thế này?”. Nhìn gương mặt và thái độ thân thiện của anh, tôi nghĩ thầm: “Anh không thể là kẻ gian được”. Và tôi thấy ngượng ngùng, bối rối vô cùng. Rơm rớm nước mắt, tôi nói: “Xe hỏng, nhưng em không có tiền. Em bị mất ví trên tàu rồi!”. Không chần chừ, anh lấy trong túi ngực ra mấy tờ tiền, dúi vào tay tôi và bảo: “Em cầm tạm, thể nào cũng gặp chỗ vá xe. Anh phải ra ga Hàng Cỏ, chờ tàu vào nam. Em cẩn thận nhé!”. Tôi sững người chưa kịp cảm ơn cũng chẳng kịp hỏi tên thì anh đã quay gót vội vã rảo bước như sợ tôi khái tính, không nhận tiền. Tới ngã tư, anh còn ngoảnh lại vẫy vẫy trước khi rẽ sang hướng ga Hàng Cỏ. Tôi trân trối nhìn những tờ giấy bạc nhàu, lộn xộn, âm ấm lòng tay. Thật lạ, chúng có giá trị bằng đúng số tiền tôi vừa mất.

Tôi chung chiêng đạp xe trên phố đêm vắng thênh, thầm đếm những ngọn đèn đường: “Được, mất, được, mất, được”.

Xem thêm