Một góc phố tranh graffiti ở Comuna 13.
Một góc phố tranh graffiti ở Comuna 13.

Bản sắc

Những bức tranh tường nói với ta về sức mạnh vô song

Khi những người bạn ở Medellin rủ đi tham quan khu tranh đường phố (graffiti), chúng tôi đinh ninh sẽ được đưa tới một vài con phố cũ nào đó trong thành phố. Nhưng xe cứ đi mãi, đi mãi về phía núi cao.

Chỉ cách trung tâm chừng 20 km, nhưng đường núi, hẹp, xe đông nên di chuyển khá chậm. Nơi chúng tôi đến là Comuna (cộng đồng) số 13 nằm trên dãy núi Andes.

Từ cộng đồng tội phạm thành du lịch cộng đồng

Mỗi sáng thức dậy, tôi thường bước ra ban-công hít thở không khí trong lành đầu ngày và ngắm bình minh từ từ hiện ra trên đỉnh núi. Giữa mầu xanh của núi có những ngôi nhà mầu đỏ và mầu hoàng thổ chen chúc, chồng lên nhau vụng về, giống như một đứa trẻ đang nghịch những bao diêm trong trò chơi xếp hình. Dân nghèo tứ xứ đổ về Medellin khi thung lũng này bắt đầu đô thị hóa, các Comuna theo đó hình thành. Hằng ngày, họ xuống thành phố làm thuê mướn để mưu sinh, tối lại quay về căn nhà xây tạm trên núi.

Cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn là mảnh đất màu mỡ cho tội phạm nảy mầm. Nơi này trở thành sào huyệt của “vua cocain” Pablo Escoba. Hắn đã sáng lập và lãnh đạo những băng đảng khét tiếng ở Medellin, biến thành phố thành hang ổ tội ác, buôn lậu, tống tiền, đánh bom... Vào những năm 80 và 90 của thế kỷ trước Medellin chìm trong bạo lực, khủng bố, chia rẽ. Người đến Medellin không dám ra đường vào ban đêm, còn ban ngày, tới những chỗ đông người phải có cảnh sát vũ trang đi kèm. Hơn 45.000 người chết trong thập niên cuối của thế kỷ XX và 1990-1991 là hai năm bạo lực nhất trong lịch sử Medellin. Comuna 13 từng là căn cứ của các băng đảng tội phạm và ma túy. Chính quyền đã tổ chức nhiều chiến dịch quân sự trấn áp, nhưng bất ổn vẫn hoàn bất ổn.

Trước đây, người ngoài không dễ đặt chân tới nơi này vì nó là một cộng đồng khép kín do các băng đảng xã hội đen thao túng. Điều đó vẫn còn ít nhiều dấu vết đến hôm nay. Vì vậy để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho chuyến đi này, ban tổ chức đã phải nhờ đến “bảo lãnh” nào đó từ thành viên uy tín của cộng đồng, cho phép chúng tôi sục sạo bất cứ nơi đâu, ngó nghiêng, chụp ảnh và hỏi chuyện người dân thoải mái.

Người bảo lãnh nhỏ bé như một thiếu niên, vận đồ đen, đeo kính đen, mũ đen, gương mặt lạnh, nghe nói cô là nghệ sĩ vẽ graffiti nổi tiếng ở đây. Cô không rời chúng tôi nửa bước, thái độ thận trọng, kiệm lời. Chỉ khi đoàn xuống đến chân núi an toàn, cô mới bỏ cặp kính đen ra, nở nụ cười rất hiền mọi người mới công nhận gương mặt cô rất đẹp. “Nghệ sĩ phải thế chứ!” - ai đó nói đùa.

Xe dừng ở chân núi, từ đây lên, du khách phải đi bộ. Trước mắt chúng tôi là những ngôi nhà xây thô bằng gạch, chênh vênh, chật chội, xếp chồng lên nhau. Thi thoảng mới thấy một khoảnh sân nhỏ hẹp, một vài cụ già ngồi sưởi nắng. Chỉ những nhà mặt phố tường mới được trát phẳng để vẽ tranh. Nơi đây là cả một vương quốc tranh! Dừng lại bất kỳ chỗ nào, nhìn lên thấy tranh, nhìn xuống thấy tranh, nhìn phải, nhìn trái vẫn thấy tranh. Có những tranh bé bằng cái bảng, lại có những tranh phủ kín tường cả một tòa nhà.

Những bức tranh tường ở đây không chỉ để trang trí mà để bày tỏ tinh thần cộng đồng, vì thế nó rất đẹp khi chứa đựng tố chất nghệ sĩ bẩm sinh nồng nhiệt theo phong cách đặc trưng Nam Mỹ: đập vào mắt người xem, cuốn đi, chinh phục và không cho kháng cự. Gam chủ đạo là các mầu sắc rực rỡ, độ tương phản mạnh. Tranh tả thực, tranh trừu tượng, tranh ấn tượng... trên các bức tường cho thấy sự đa dạng về phong cách nghệ thuật thông qua các hình thức biểu đạt của graffiti, của nghệ thuật sắp đặt.

buc-tuong-khong-lo-me-trai-dat-la-diem-check-in-cua-du-khach.jpg
Bức tượng khổng lồ Mẹ Trái đất là điểm check in của nhiều du khách.

Gặp lại quê hương

Chúng tôi di chuyển chậm vì phải đợi Tusiata Avia, nữ nhà thơ đến từ hòn đảo Samoa thuộc New Zealand. Chân chị bị đau, sưng to bằng cái cột nhà, nhưng chị vẫn ngoan cường chống nạng theo đoàn, không thiếu một điểm nào và không cho ai đỡ. Mỗi khi dừng nghỉ, chị lại nở nụ cười tươi rói: “Tôi sẽ phá vỡ âm mưu của đôi chân muốn ngăn cản cơ hội hiếm có này”.

Trên các khúc đường quanh, từng nhóm nghệ sĩ đường phố, hầu hết là thanh thiếu niên quây lại biểu diễn các điệu nhảy hiphop đầy quyến rũ. Những động tác nhào lộn điêu luyện, những cú santo không tưởng trong tiếng nhạc rạo rực như muốn đốt cháy người xem. Khán giả được dắt tay mời vào cùng nhảy, dĩ nhiên chẳng ai từ chối. Sau mỗi màn biểu diễn chừng mươi phút, một chiếc mũ ngửa ra, người xem tùy tâm thưởng cho nghệ sĩ.

Đường đi tuy hẹp và dốc, vẫn có những chiếc xe máy chở đồ ăn luồn lách điệu nghệ. Dù nhiều du khách đi dềnh dàng choán hết đường, nhưng không thấy còi xe hay lời cáu bẳn bật ra từ những gương mặt không vui. Chỉ cần lộ ra một khe hẹp, họ sẽ vút qua như một mũi tên. Trên đường có rất nhiều hàng quà vặt. Tôi reo lên khi thấy quầy bán măng cụt và chôm chôm. Cách nửa vòng trái đất, gặp quầy trái cây mà như gặp được quê hương.

56.jpg
Măng cụt, chôm chôm là món ăn khoái khẩu của người dân.

Mọi người thi nhau mua, bóc ra những múi trắng nõn, chia nhau. Simon Andrey, người Colombia bảo, ở đây, dân chúng thích ăn hai loại quả này lắm và nó không hề rẻ. Anh trợn ngược mắt lên khi nghe tôi bảo, sang Việt Nam, nếu đến khu miệt vườn miền tây, chỉ cần bỏ ra mười đô-la là có thể vào vườn trái cây ăn thoải mái, có sức ăn hết cả vườn cũng được.

Lên đến điểm cao nhất, chúng tôi nhìn về thành phố, những ngôi nhà ở khu trung tâm chỉ còn bé bằng chiếc cúc áo. Chắn ngang tầm mắt chúng tôi là hai bức tượng khổng lồ. Chúa Jesu giang rộng hai tay, vai khoác lá cờ Colombia, mặt hướng vào núi, lưng quay về thế giới phồn hoa bên dưới. Cách đó không xa là tượng Mẹ Trái đất, kích thước còn lớn hơn cả tượng Jesu. Gương mặt thánh thiện của bà cũng quay vào núi, hai bàn tay khổng lồ mở ra như đang nâng đỡ con người. Bàn tay ấy vừa chỗ cho một nhóm cỡ mười người. Tuy chỉ là điểm check in, nhưng hai bức tượng mang một ẩn dụ nào đó, có thể là sự chối bỏ, sự tự tôn hay lòng kiêu hãnh của cộng đồng trên núi với cộng đồng giàu sang dưới thành phố chăng? Trên đường quay ra, mắt tôi chợt hút vào bức phù điêu rực rỡ đặt ở một ngã ba rộng rãi, cũng là chỗ nghỉ chân. Phù điêu được tranh trí bằng một vầng hoa hướng dương, bướm và những con thằn lằn nhiều mầu sắc. Chính giữa phù điêu ghi hai chữ “Libros - Books”, “sách” bằng tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh. Phía dưới có dòng chú giải nhỏ “Quận sách số 13 của thành Medellin”. Cái tên khét tiếng Comuna 13 khi xưa đã đổi tên thành Bookdistric trên bức phù điêu trang trọng này. Bằng sự tôn vinh ấy, phải chăng cư dân muốn nói, cái làm thay đổi cộng đồng hoặc sự ưu tiên, tôn vinh của cộng đồng là những cuốn sách và việc đọc sách?

Comuna 13 nói với chúng ta rằng, nghệ thuật đã vượt khỏi phạm vi làm đẹp không gian, nhà cửa, trở thành tiếng nói văn hóa và nhân văn, gia tăng gắn kết, để cư dân biết bảo ban nhau làm ăn, hướng thiện. Những gì Chính phủ không làm được thì nghệ thuật đã làm thay. Những quyển sách, những bức tranh đã thế vào chỗ súng đạn, tội ác, đem lại bình yên cho cộng đồng vốn bị nhấn chìm bởi tội ác và đói nghèo. Đó là cảm hứng cũng là sức mạnh vô song của văn hóa, của nghệ thuật nếu biết cách sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, đúng thời điểm. Ý nghĩ này ám ảnh tôi trên suốt quãng đường trở về thành phố.

Khởi thủy, người dân ở đây vẽ tranh không phải vì mục đích nghệ thuật. Tranh là cách họ kể lại câu chuyện về lịch sử, về quá khứ đầy biến động và khát vọng có một tương lai khá hơn. Tranh ở đây có thể chia thành ba giai đoạn: Thời kỳ bạo lực và ma túy; Cuộc sống nghèo khó trong các khu ổ chuột và ký ức tha hương; Hồi sinh và hy vọng. Bên cạnh đó còn thấy nhiều tranh châm biếm, kể những câu chuyện vui nhộn, tạo nên một không gian nghệ thuật đa chiều, sống động.

Xem thêm