Thôn Lưu Thượng ở xã Phượng Dực (Hà Nội) - nơi nghề đan cỏ tế không chỉ là kế sinh nhai, mà còn là nhịp cầu nối quá khứ và hiện tại, gắn kết tình yêu, niềm tự hào của bao thế hệ về di sản truyền thống cha ông.
Ở Lưu Thượng, quanh năm, những bó cỏ tế lớn được chất đầy khoảnh sân hay góc hiên nhà. Người già, con trẻ túm tụm tuốt vỏ, chẻ sợi... hoặc thoăn thoắt tay đan. Theo thông tin lưu trong cuốn Ngọc phả của thôn Lưu Thượng, tương truyền, vào năm 1683, cụ Nguyễn Thảo Lâm là người đầu tiên phát hiện, đưa cây cỏ tế, còn gọi là cây guột về thôn. Cụ đã bỏ nhiều công sức để nghiên cứu đặc tính, tìm ra cách xử lý để biến cỏ tế thành nguyên liệu làm ra vật dụng sinh hoạt hằng ngày. Cụ được tôn là Tổ nghề và được người dân nơi đây đúc tượng thờ tại đình thôn Lưu Thượng. Cứ vào ngày 15/10 âm lịch hằng năm, người dân lại tổ chức giỗ Tổ làng nghề.
Ông Nguyễn Văn Viễn, Trưởng thôn Lưu Thượng cho biết, ngày xưa, bí quyết làm nên sợi cỏ tế bền đẹp được người dân trong làng tuyệt đối giữ bí mật. Ngay cả con gái của làng cũng không được khuyến khích lấy chồng xa vì sợ lộ nghề. Mãi sau này, khi thị trường phát triển, nhu cầu về sản phẩm ngày một cao, nghề làm cỏ tế mới được nhân rộng ra một số địa bàn lân cận. Đặc biệt, bước sang thời kỳ đổi mới, nhất là từ những năm 1990, khi thị trường mở cửa, các sản phẩm từ cỏ tế của Lưu Thượng đã vươn tới tận các quốc gia châu Âu, Trung Đông, Nhật Bản, Hàn Quốc… Không chỉ tạo việc làm cho người dân, nghề đan cỏ tế còn góp phần đưa Lưu Thượng thoát nghèo.
Ở Lưu Thượng, quanh năm, những bó cỏ tế lớn được chất đầy khoảnh sân hay góc hiên nhà. Người già, con trẻ túm tụm tuốt vỏ, chẻ sợi... hoặc thoăn thoắt tay đan.
Theo Trưởng thôn Nguyễn Văn Viễn, có được diện mạo của Lưu Thượng hôm nay, không thể không tri ân những nghệ nhân đan cỏ tế thế hệ đầu tiên. Đó là các nghệ nhân Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Văn Ngải, Nguyễn Văn Thông… - những người vừa tiên phong tạo ra những sản phẩm mới, vừa mở lớp truyền dạy nghề cho người dân.
Chúng tôi tìm đến Xưởng mây tre đan cỏ tế xuất khẩu Phú Thịnh của nghệ nhân Nguyễn Văn Thịnh - con trai cố nghệ nhân Nguyễn Văn Ngải. Trong xưởng, gần chục nhân công đang miệt mài hoàn thiện nốt những công đoạn cuối trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Vừa tỉ mỉ cắt tỉa những đầu sợi bị chườm sau khi đan, nghệ nhân 40 năm tuổi nghề vừa chia sẻ về quy trình: Về cơ bản, đan cỏ tế không khác nhiều so với đan lát mây tre, khác biệt lớn nhất nằm ở đặc tính nguyên liệu. Mọc tự nhiên trong rừng sâu, cỏ tế mềm mại, dẻo dai, độ bền cao, ít bị mối mọt, đặc biệt là có khả năng lên mầu tự nhiên (phổ biến là mầu trắng vàng và nâu đỏ) mà không cần phải tẩy, hun hay nhuộm hóa chất như các vật liệu khác. Tuy nhiên, sợi cỏ tế có đạt mầu sắc và chất lượng tốt nhất hay không phụ thuộc rất nhiều vào khâu sơ chế, xử lý. Đây cũng là công đoạn khó nhất và mất thời gian nhất.
Nghệ nhân Nguyễn Văn Thịnh cho hay, cây cỏ tế sau khi thu mua về sẽ được người dân bóc bỏ phần vỏ để lấy ruột bên trong. Với đặc tính gặp nắng thì cứng cáp, gặp mưa thì mềm mại, phần ruột cỏ tế được mang phơi sương, phơi nắng ít nhất ba ngày ba đêm liên tục. Nắng, sương phải đủ độ mới ra sợi sáng đẹp, vì thế đòi hỏi cả kỹ năng cũng như kinh nghiệm của người làm nghề. Sau khi phơi, ruột cỏ tế được mang đi ngâm nước để sợi dẻo dai, tiếp đó lại bóc thêm một lượt vỏ, lấy phần lõi chẻ làm đôi, làm ba tùy theo độ to, nhỏ cần có, rồi đem phơi khô, tiến hành phân loại theo mục đích sử dụng.
Công đoạn tiếp theo là đan tạo hình, sau cùng là nhúng qua dầu keo để định hình, làm cứng kết cấu sản phẩm… Phức tạp là thế, lại phải làm hoàn toàn thủ công nên dù quy trình đã được truyền sang các vùng chung quanh, vẫn chỉ có sợi cỏ tế của làng Lưu Thượng là thật sự sắc nét. Đó là lý do bên cạnh công việc đan lát thành phẩm, nhiều hộ dân trong thôn còn chủ động thu mua, sơ chế cỏ tế để cung cấp nguyên liệu cho các vùng chung quanh...
Hiện xưởng của gia đình ông Thịnh đang tạo công việc quanh năm cho gần 10 thợ chính, chưa kể các lao động thời vụ được huy động trong các đợt sản xuất cao điểm. Mỗi tháng, chỉ riêng xưởng Phú Thịnh đã hoàn thiện 1.000 đến 2.000 sản phẩm, trong đó phần lớn là những sản phẩm được làm từ cỏ tế kết hợp các nguyên liệu khác như mây, bèo tây, cói, bẹ ngô, lá buông… để đa dạng hóa mẫu mã, đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ của thị trường.
Đến nay, bên cạnh những sản phẩm truyền thống như nón, làn, thúng, mẹt, nong, nia, rổ, rá… chủ yếu tiêu thụ trong nước, người dân Lưu Thượng còn sáng tạo thêm nhiều sản phẩm hiện đại như túi xách, hộp-giỏ quà, lẵng hoa, vali, tráp đựng son phấn, con giống, đồ lưu niệm… phục vụ xuất khẩu.
Hiếm có nơi nào mà cả thôn với hơn 500 hộ dân đều gắn bó với nghề truyền thống như Lưu Thượng. Từ cụ già ngót trăm tuổi đến trẻ nhỏ lên 6, lên 7, ai cũng có thể tham gia những công đoạn của nghề đan cỏ tế. Có lẽ bởi thế mà sợi cỏ tế được ví như sợi dây gắn kết gia đình, kết nối bao thế hệ người Lưu Thượng. Người dân nơi đây quen thuộc với cây cỏ tế đến mức chỉ cần nhìn qua đã biết chất lượng, nguồn gốc ra sao. Chẳng hạn, cây mọc ở Cao Bằng thì thường ngắn, cứng và già sợi hơn; mọc ở Sơn La, Lai Châu thì dài, mềm, dai, non sợi hơn; còn mọc ở Lào thì không có chạc ở đầu sợi guột…
Đến nay, bên cạnh những sản phẩm truyền thống như nón, làn, thúng, mẹt, nong, nia, rổ, rá… chủ yếu tiêu thụ trong nước, người dân Lưu Thượng còn sáng tạo thêm nhiều sản phẩm hiện đại như túi xách, hộp-giỏ quà, lẵng hoa, vali, tráp đựng son phấn, con giống, đồ lưu niệm… phục vụ xuất khẩu.
Trung bình một ngày, một người thợ tùy năng suất có thể kiếm 100 nghìn đến 200 nghìn đồng. Sự hiện diện của gần 30 công ty, doanh nghiệp, tổ hợp trong cụm công nghiệp làng nghề cũng đang trở thành những “đầu tàu” đưa tinh hoa nghề truyền thống vươn xa. Từ tháng 7/2025, nhằm tăng cường sức lan tỏa của sản phẩm làng nghề trên môi trường số, xã Phượng Dực đã thường xuyên tổ chức các lớp học hướng dẫn kỹ năng quay video, viết nội dung, livestream bán hàng cho người dân.
Đặc biệt, với bề dày truyền thống làng nghề cùng đội ngũ nghệ nhân giàu kinh nghiệm và khung cảnh thiên nhiên yên bình, Lưu Thượng còn được định hướng trở thành điểm đến du lịch văn hóa độc đáo, nơi du khách được tới các gia đình, trải nghiệm đan cỏ tế, mang về những sản phẩm thú vị… Từ năm 2024, thôn đã chỉnh trang, tôn tạo một số công trình như khu đình làng, giếng làng, cổng làng… Nhà văn hóa thôn cũng đã được bố trí không gian để làm văn phòng cung cấp thông tin và trưng bày hàng mẫu. 3-4 hướng dẫn viên hiểu nghề, hiểu làng, có thể giao tiếp bằng cả tiếng Việt, tiếng Anh, sẵn sàng đưa du khách khám phá vẻ đẹp làng nghề hàng trăm tuổi.