GS, TS Nguyễn Tuấn Anh, Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
GS, TS Nguyễn Tuấn Anh, Tổng Biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.

KỶ NIỆM 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2/9

Làng xã Việt Nam: Biến đổi đa chiều và tiến trình thích ứng (*)

Đã tồn tại, thích ứng và biến đổi suốt mấy nghìn năm, làng xã Việt Nam không chỉ là đơn vị hành chính mà còn là không gian sống, không gian văn hóa-xã hội đặc trưng, dung chứa nhiều lớp trầm tích lịch sử, phản chiếu rõ nét tiến trình biến đổi từ trong tầng sâu của đời sống xã hội Việt Nam.

Những biến đổi sâu rộng và đa chiều

Trước thế kỷ 20, làng xã truyền thống là hạt nhân cơ bản của cấu trúc xã hội Việt Nam. Từ vùng Đồng bằng Bắc Bộ rồi lan rộng ra Trung và Nam Bộ trong quá trình mở cõi, làng xã truyền thống mang đậm tính tự trị, ổn định, gắn bó mật thiết với sản xuất nông nghiệp.

Từ nửa cuối thế kỷ 19, khi thực dân Pháp xâm lược và thiết lập nền thống trị thuộc địa, làng xã Việt Nam dần bước vào thời kỳ chuyển mình khó khăn. Trong bối cảnh mất nước, nhiều làng trở thành căn cứ cách mạng, dựa vào mạng lưới họ tộc-phường hội-hương ước để giữ gìn tinh thần đoàn kết và chống áp bức.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước Đổi mới, làng xã Việt Nam bước vào một hành trình đầy biến động kéo dài suốt bốn thập kỷ, ngay sau 30 năm khói lửa chiến tranh (1945-1975) là đến 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội với cường độ cao (1976-1985). Trong dòng chảy lịch sử ấy, làng xã tiếp tục trải qua những biến đổi sâu sắc trên nhiều phương diện.

Từ sau năm 1986, với chính sách Đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làng xã Việt Nam trải qua quá trình thay đổi chưa từng có về mọi mặt, từ không gian cư trú, tổ chức sản xuất, quản lý cộng đồng, cơ cấu dân cư tới quan hệ xã hội và bản sắc văn hóa.

Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và mở rộng hạ tầng giao thông phá vỡ tính khép kín truyền thống của không gian làng xã, đưa các làng xã vào mạng lưới liên kết vùng rộng lớn hơn. Đồng thời, ranh giới giữa nông thôn và đô thị ngày càng mờ nhạt, tạo nên những không gian “bán đô thị”, nơi mà hình ảnh làng truyền thống và yếu tố hiện đại đan xen, phản ánh rõ nét quá trình chuyển hóa không gian sống của nông thôn Việt Nam.

Công cuộc Đổi mới đánh dấu bước ngoặt trong tổ chức sản xuất ở làng xã Việt Nam, khi mô hình kinh tế hợp tác xã nhường chỗ cho kinh tế hộ gia đình. Kinh tế hộ phát triển, kéo theo sự hình thành các hợp tác xã kiểu mới và doanh nghiệp nông thôn, đồng thời tái cấu trúc các quan hệ xã hội truyền thống trong gia đình, họ hàng và cộng đồng. Đây cũng là biểu hiện của quá trình hội nhập làng xã vào kinh tế thị trường.

Song song với nông nghiệp, các ngành phi nông như làng nghề, dịch vụ và lao động di cư phát triển mạnh, góp phần làm thay đổi diện mạo làng quê nhưng đồng thời làm lỏng lẻo các quan hệ cộng đồng. Sự chuyển đổi này dẫn đến hình thành các mô hình sản xuất linh hoạt hơn. Tổ chức sản xuất làng xã thời kỳ Đổi mới, vì vậy, vừa phản ánh xu hướng cá nhân hóa, thị trường hóa, vừa mở ra cơ hội phát triển đa chiều. Nhưng mặt khác, sự chuyển đổi này cũng đặt ra nhiều thách thức, như phân hóa giàu-nghèo, thiếu liên kết chuỗi giá trị và khó khăn trong tiếp cận nguồn lực.

Trên bình diện chính trị và quản lý, bối cảnh Đổi mới đã đánh thức những lớp trầm tích của cơ chế tự quản làng xã truyền thống.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cấp thôn và trưởng thôn, từng mờ nhạt một thời, đã trở lại như trục xoay của quản trị cộng đồng. Các văn bản quan trọng đã chính thức xác lập thôn là tổ chức tự quản của dân cư; trưởng thôn do người dân trực tiếp bầu, chịu sự lãnh đạo của chi bộ và quản lý của chính quyền xã. Song song đó, hương ước, biểu tượng một thời của trật tự làng xã, cũng được khôi phục kể từ đầu thập niên 1990, trở thành “bộ luật mềm” nhằm điều chỉnh đời sống thường nhật, từ sản xuất đến tín ngưỡng. Sự hồi sinh của tự quản cấp thôn và hương ước cho thấy một chuyển động tinh tế: Nhà nước hiện đại không xóa nhòa quản lý làng xã truyền thống mà tái cấu trúc nó thành nền tảng cho dân chủ cơ sở và quản trị nông thôn.

Thời kỳ Đổi mới đánh dấu sự trở lại của các lễ hội truyền thống tại đình, đền cùng sự phục hồi các lễ nghi gắn với chu trình đời người như cưới hỏi, tang ma, thờ cúng tổ tiên.

Nghiên cứu thực địa cho thấy, kể từ cuối thập niên 1980, xu hướng hội làng được tổ chức trở lại, nghi lễ dân gian được phục hồi, việc thờ cúng tổ tiên trong các dòng họ trở nên đậm nét hơn. Các nghi thức cưới, tang kể từ giai đoạn này cũng mang đậm dấu ấn truyền thống, cho thấy sự bền bỉ của văn hóa dân gian giữa dòng chảy hiện đại hóa.

142.jpg
Tế lễ ở nhà thờ họ Nguyễn làng Bắc Thành (nay là xã Quan Thành, tỉnh Nghệ An).

Thích ứng và phát triển trong giai đoạn mới

Hiện nay, làng xã Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới trong bối cảnh chuyển đổi số, xây dựng nông thôn mới và sắp xếp lại đơn vị hành chính.

Khởi nguồn từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và cụ thể hóa qua Bộ tiêu chí quốc gia năm 2009, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã trở thành động lực chủ đạo cho quá trình chuyển đổi toàn diện ở nông thôn, trên cả phương diện vật chất lẫn thể chế, đưa nông thôn bước vào quỹ đạo hiện đại hóa và phát triển bền vững.

Trong bối cảnh đương đại, quan hệ xã hội và bản sắc văn hóa làng xã Việt Nam vừa kế thừa truyền thống vừa chịu tác động mạnh mẽ từ quá trình chuyển đổi kinh tế-xã hội chung của đất nước. Quan hệ cộng đồng vốn dựa trên nền tảng huyết tộc và láng giềng dần nhường chỗ cho các mối quan hệ chức năng, linh hoạt hơn, gắn với nhu cầu sinh kế, thị trường lao động và dịch vụ. Mô hình “làng quan hệ” dần chuyển thành “làng giao dịch”, nơi mà các kết nối xã hội mở rộng vượt ra ngoài phạm vi thôn xóm truyền thống.

Trong khi đó, bản sắc văn hóa làng cũng đang biến đổi dưới áp lực của hiện đại hóa và toàn cầu hóa. Nhiều nghi lễ và giá trị truyền thống bị thương mại hóa hoặc mai một, nhưng đồng thời cũng xuất hiện các nỗ lực phục dựng, bảo tồn văn hóa làng như một phần của phát triển du lịch hoặc xây dựng nông thôn mới. Sự giằng co giữa bảo tồn và thích nghi cho thấy bản sắc làng xã không mất đi, mà đang tái cấu trúc trong bối cảnh mới, vừa để khẳng định tính liên tục văn hóa vừa phản ánh năng lực thích ứng của nông thôn Việt Nam đương đại.

Việc sáp nhập các xã và dừng hoạt động chính quyền cấp huyện vừa được thực hiện không chỉ là điều chỉnh về mặt địa giới, mà còn là một cuộc tái thiết sâu rộng không gian tổ chức và vận hành của đời sống làng xã Việt Nam, mở ra một không gian rộng lớn hơn, nơi các dòng chảy kinh tế, văn hóa, xã hội được nối mạch và cộng hưởng mạnh mẽ. Các làng xã trước kia giờ đây được kết nối trong những “xã mới” có quy mô rộng hơn, dân số đông hơn và tiềm lực phát triển lớn hơn.

Tất nhiên, việc người dân thật sự thích ứng với sự mở rộng không gian qua việc thiết lập các xã mới là một hành trình, đòi hỏi thời gian. Bản sắc làng xã, những tên gọi thân thương, những thiết chế cộng đồng gắn bó lâu đời..., tất cả cần được gìn giữ hài hòa trong dòng chảy mới. Nhưng, nhìn một cách tổng thể, đây là bước chuyển lớn mở ra cơ hội để làng xã Việt Nam trở thành những mắt xích năng động trong mạng lưới phát triển vùng và quốc gia.

Biến đổi làng xã là một tiến trình tất yếu trong quá trình hiện đại hóa và phát triển. Để làng xã vừa phát triển về kinh tế vừa ổn định về xã hội, vừa không mất đi hồn cốt làng trong guồng quay của biến đổi xã hội đương đại, chính sách phát triển nông thôn cần chú trọng đến các giá trị xã hội-văn hóa đặc thù của làng Việt, với các cách tiếp cận đa chiều, bao hàm sự tích hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa quản lý nhà nước và tự quản cộng đồng, giữa quy hoạch hạ tầng và bảo tồn giá trị văn hóa.

(*) Nội dung bài viết có tham khảo, trích dẫn từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm: Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ (tác giả Trần Từ, năm 1984); Hương ước và quản lý làng xã (tác giả Bùi Xuân Đính, năm 1998); Culture, Ritual and Revolution in Vietnam; Shaun Kingsley Malarney năm 2002; Tradition, Revolution, and Market Economy in a North Vietnamese Village, 1925-2006 (tác giả Hy V. Lương, năm 2010). Biến đổi làng xã Việt Nam qua các chặng đường lịch sử (tác giả Nguyễn Tuấn Anh, năm 2024).

Xem thêm