Những dấu tích văn hóa Chăm và người Việt duyên hải đã xuất hiện trên miền cao nguyên từ rất sớm. Nhiều di tích Chăm có mặt giữa đại ngàn. Những bộ sử thi, truyện cổ của các tộc người Tây Nguyên và Chăm lưu dấu mối quan hệ giữa các tộc người từ thời cổ sử. Trong kháng chiến chống Pháp, các phong trào yêu nước từ cao nguyên của các thủ lĩnh N’Trang Lơng, Mọ Cọ… đều có sự tham gia của các nghĩa binh Chăm. Những chiến khu của lực lượng Việt Minh chống Pháp đều thuộc núi rừng, làng buôn của cả ba tỉnh cũ. Trong kháng chiến chống Mỹ, Lâm Đồng thuộc Khu VI Anh hùng; đây là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt, gồm các tỉnh cũ: Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy…
Cơ duyên lịch sử đã kết nối những vùng đất Lâm Đồng. Chính điều đó đã dựng nên chân dung tỉnh mới trong việc phát huy lợi thế thiên nhiên cùng sắc màu văn hóa của các tộc người. Về trong một “ngôi nhà chung”, Lâm Đồng có diện tích tự nhiên lớn nhất nước với 24 nghìn km2; 103 xã, 20 phường và 1 đặc khu; dân số hơn 3,87 triệu người, 49 dân tộc, trong đó đồng bào thiểu số chiếm 17,6%. Lâm Đồng trở thành nơi hội tụ, hòa hợp của đa dạng sắc màu văn hóa, những sắc màu ấy như một tấm thổ cẩm gấm vóc, tạo nên dấu ấn và sự hấp dẫn. Một thống kê khái quát, Lâm Đồng sau sáp nhập là địa phương có tới 7 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh, 10 di sản phi vật thể quốc gia, 3 di tích đặc biệt, 144 di tích lịch sử-danh thắng. Bảo tàng tỉnh đang lưu giữ hơn 112.000 hiện vật, tài liệu, trong đó có 3 bảo vật quốc gia (đàn đá Đăk Sơn, Linga vàng và tượng Avalokitesvara Bắc Bình).
Ở miền cao nguyên thuở trước là quê hương ngàn đời của các tộc người như: Ê Đê, M’Nông, Cơ Ho, Mạ, Chu Ru… Ngày nay, xứ sở này là đất lành của cư dân nhiều vùng trong nước tụ về. Văn hóa của các dân tộc tại vùng cao nguyên Lâm Đồng được hình thành trên nền tảng văn hóa Việt, văn hóa các dân tộc thiểu số tại chỗ và một phần của văn hóa các tộc người thiểu số phía bắc mới vào lập nghiệp. Sự giao thoa giữa các yếu tố này tạo thành một kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc, phong phú; thể hiện trong kiến trúc, trang phục, ẩm thực; trong các làng nghề; trong tín ngưỡng, phong tục, lễ hội, nghệ thuật dân gian. Đặc biệt, khu vực tỉnh lỵ-Đà Lạt cũ hiện là khu vực đô thị có 4 danh hiệu được UNESCO công nhận, bao gồm: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Mộc bản triều Nguyễn, Khu dự trữ sinh quyển thế giới Lang Biang và Đà Lạt-Thành phố sáng tạo UNESCO trong lĩnh vực âm nhạc. Festival hoa Đà Lạt cũng đã trở thành một thương hiệu văn hóa được nhiều tổ chức trong và ngoài nước công nhận.
Vùng duyên hải Lâm Đồng lại là khu vực hội tụ nhiều nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng 35 dân tộc, trong đó, nền văn minh Chăm Pa và văn hóa biển của người Việt là những dấu ấn hết sức rõ nét. Có thể nói, hợp nhất Lâm Đồng là nối dài thêm danh sách các dân tộc anh em; mở rộng thêm không gian văn hóa vùng, miền và phong phú thêm “bộ sưu tập” hệ thống di sản vật thể và phi vật thể. Những di sản vô giá đó chính là nền tảng, tiềm năng, niềm tự hào và động lực cho tiến trình phát triển của một vùng non nước.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có hơn 70 di tích lịch sử-văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng, trong đó có 28 di tích, danh thắng quốc gia và 4 di sản văn hóa phi vật thể đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.