Mỗi người một cách, họ đều đang gượng dậy, nhưng những tổn thất cứ lặp lại năm này qua năm khác. Giữa vòng xoáy bão lũ ngày càng khốc liệt, đã đến lúc cần một “tấm khiên” kinh tế - cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai - để người dân có chỗ dựa trong thảm họa.
Sau lũ - rũ bùn đứng dậy, nhưng...
Tôi vẫn ám ảnh mãi tiếng khóc nghẹn của anh Trần Văn Tuấn, chủ một kho lương thực ở phường Hoàng Văn Thụ, tỉnh Thái Nguyên đêm 7/10. Khi nước bắt đầu dâng, anh Tuấn cùng anh em thức trắng đêm khuân hàng, hết đợt này đến đợt khác, cố kê gạo, ngô, bột mì lên cao. Nhưng nước cứ lên, cao hơn cả hy vọng của con người. Đến lúc bất lực, anh chỉ còn biết đứng nhìn kho hàng bị dòng nước đục ngầu nuốt chửng. “Tường nhà đổ, xe máy, ô-tô, ti-vi đều chìm hết rồi... Mất tất cả rồi,” anh bật khóc.
Khi nước rút, Tuấn lại xắn tay áo, mở từng bao gạo, cố vớt vát chút gì còn dùng được. Bao nào chưa ướt nát, anh nhờ người nấu rượu đến lấy giúp; phần còn lại đành bỏ đi - chẳng thể cho gia súc ăn, vì cả lợn gà cũng đã bị cuốn trôi. Rồi anh cùng người thân đánh bùn ra khỏi nhà, sửa lại cửa, bàn tính vay vốn để gượng dậy lần nữa. Gạt vội lớp bùn trên mặt, anh nói khẽ: “Còn người là còn của. Mình vẫn may hơn nhiều người khác. Nhưng nếu có một loại bảo hiểm thiên tai nào đó cho hộ kinh doanh nhỏ như tôi thì tốt biết mấy... Chứ cứ mỗi lần nước về, lại trắng tay thế này, ai còn sức mà đứng dậy nữa”.
Vừa trả xong khoản nợ hơn một tỷ đồng vì trận lụt do bão Yagi gây ra năm ngoái, chị Thu Hà thẫn thờ nhìn cửa hàng 1.600 m2 bị bao phủ bởi bùn đất sau trận lũ năm nay.
Trên đường Bến Tượng, phường Phan Đình Phùng, chiều 10/10, chị Hà cùng hơn 30 người hối hả dọn dẹp. Trong không gian ngổn ngang như bãi chiến trường, người hì hục đẩy bùn, người cầm vòi xịt gột rửa từng món hàng, nhóm khác khệ nệ khuân những chồng xô chậu ra vỉa hè. “Tôi phải làm liên tục để khỏi phải ngẩng đầu lên nhìn số hàng hóa “tẩm bùn” không biết cọ rửa đến bao giờ mới xong”, chị Hà chia sẻ.
Năm ngày trước, khi mưa lớn và nước thượng nguồn đổ về, gia đình chị kê hàng hóa lên cao 80 cm, mức an toàn dựa trên kinh nghiệm từ trận lụt kỷ lục năm 2024 vốn chỉ ngập 50 cm.
Nhưng không ai lường được sức nước năm nay. Nước lên nhanh khủng khiếp, chỉ trong một đêm đã dâng cao ba mét. Suốt hai ngày sau, vợ chồng chị bất lực nhìn dòng nước nhấn chìm tất cả. Khi nước rút, họ lặng người. Toàn bộ kho hàng và khu bán lẻ đồ gia dụng chìm trong bùn. Hơn nửa số hàng hóa bị nước lũ cuốn ra sông.
“Cú này quá sức chịu đựng”, chị Hà than. Trận lụt năm ngoái khiến gia đình mất hơn một tỷ đồng. Năm nay, thiệt hại ước tính gấp ba, thậm chí năm lần. Hiện nhà chị phải thuê 10 nhân công, phối hợp cùng 20 người thân để xịt rửa, phân loại. Những món đồ nhựa, inox còn dùng được sẽ bán hạ giá để vớt vát chút vốn.
Sau cơn bão số 10, nước rút, bùn vẫn còn vệt trên tường kho, mùi ẩm mốc lẫn mùi sắt gỉ nồng nặc. Ông Lê Duy Bình, chủ cơ sở vật liệu xây dựng Lam Nê ở xã Nông Cống (Thanh Hóa) đứng giữa đống xi-măng ướt nhèm và thép hoen gỉ. Trận bão đã nhấn chìm hơn 200 tấn xi-măng, 100 tấn thép, 5 kho hàng bị ngập, xe chở hàng chết máy. Chỉ riêng kho hàng, tổng thiệt hại ước gần 5 tỷ đồng. Ông Bình bắt đầu từ những việc nhỏ nhất: phân loại từng kiện hàng, phơi khô những thanh thép còn sử dụng được, kê từng bao xi-măng lên cao.
Nhưng ông Bình không chỉ lo kho hàng. Ông lo cho đơn hàng sắp tới: thị trường thép đang thiếu sau bão, nhiều khách hàng hủy hợp đồng vì chậm trễ. Ông vay ngân hàng, vay thêm người thân, quyết mua thêm thép, xi-măng để nhập hàng mới, đồng thời dọn dẹp kho cũ. Mọi quyết định đều là bước mạo hiểm, nhưng ông biết nếu đứng yên, không ai cứu mình thay ông được. Đêm đến, ông ngồi trên đống thép còn phơi, nhìn ra đồng ruộng xã Nông Cống đang lấm tấm nước, lắng nghe tiếng máy bơm của HTX bên cạnh, và thấy niềm tin trở lại: con người vẫn sống sót, vẫn có thể làm lại từ đống hoang tàn. Giờ đây, khi nhìn những thanh thép sáng lên dưới nắng, khi công nhân trở lại kho, ông mỉm cười: “Còn sức, còn nghề, còn người, thì cơ nghiệp rồi sẽ hồi sinh, nhưng cũng cần một điểm tựa để đứng dậy”.
Bảo hiểm thiên tai - điểm tựa phòng rủi ro
Theo thống kê, tính đến 7 giờ ngày 13/10, thiệt hại do mưa lũ sau bão số 11 (bão Matmo) ước tính trên 8.720 tỷ đồng, trong đó tỉnh Thái Nguyên chịu thiệt hại lớn nhất lên đến 4.000 tỷ đồng. Tính đến 8/10, Bảo hiểm Bảo Việt ghi nhận 372 vụ tổn thất, ước tính bồi thường thiệt hại 119 tỷ đồng vì bão Bualoi và Matmo. Trong đó, bảo hiểm tài sản, công trình xây dựng và xe cơ giới là loại hình chịu tác động nặng nề nhất. Nhưng những cá nhân và doanh nghiệp được bảo hiểm bồi thường chiếm tỷ lệ rất thấp, đa số vẫn chẳng biết bấu víu vào đâu.
Sau bão lũ, từ những hộ gia đình của anh Trần Văn Tuấn, chị Thu Hà đến doanh nhân Lê Duy Bình đều chịu thiệt hại nặng nề về tài sản - nhưng không có bất kỳ hình thức bảo hiểm nào làm điểm tựa. Câu chuyện ấy, lặp đi lặp lại sau mỗi mùa thiên tai, đặt ra câu hỏi ngày càng bức thiết: Đã đến lúc cần một cơ chế bảo hiểm rủi ro thiên tai thực sự - như một “tấm khiên” kinh tế.
Bảo hiểm rủi ro thiên tai không chỉ là khẩu hiệu chính sách, mà là công cụ cấp cứu tài chính và “đòn bẩy” phục hồi sinh kế. TS Lê Thị Thùy Vân, Phó Viện trưởng Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) nhấn mạnh: “Tăng cường khả năng ứng phó và phục hồi trước thiên tai không chỉ là yêu cầu cấp bách, mà còn là nền tảng để phát triển bền vững”.
Theo Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), sau bão Yagi hồi cuối năm ngoái, các doanh nghiệp bảo hiểm đã nhận khoảng 9.000 yêu cầu bồi thường, tổng số tiền ước hơn 7.000 tỷ đồng - trong khi thiệt hại kinh tế toàn quốc lên tới 40 nghìn tỷ đồng (tương đương 0,15% GDP). Con số chênh lệch ấy cho thấy phần lớn người dân và doanh nghiệp không nhận được bồi thường vì chưa từng mua hoặc chỉ mua bảo hiểm cháy nổ, bỏ qua rủi ro giông bão, lũ lụt.
Thị trường bảo hiểm cũng lộ rõ giới hạn. Ông Phạm Văn Dũng, đồng sáng lập Công ty Bảo hiểm trực tuyến (IBAOHIEM) dẫn chứng: nhiều doanh nghiệp “trắng tay” sau bão, như start-up Ecos - sản xuất ống hút từ rau củ quả - bị nước lũ cuốn trôi gần như toàn bộ tài sản mà “không được bồi thường đồng nào” do chưa kịp mua bảo hiểm.
Theo ông Dũng, Việt Nam cần một sản phẩm bảo hiểm chuyên về bão lũ - như nhiều quốc gia thường xuyên hứng chịu thiên tai đã áp dụng. Nếu có sản phẩm được thiết kế riêng với mức phí hợp lý và phạm vi bảo vệ phù hợp, người dân sẽ sẵn lòng tham gia hơn thay vì để mặc rủi ro.
Một trở ngại lớn vẫn nằm ở nhận thức: nhiều người vẫn xem bảo hiểm như “chi phí không cần thiết”, chỉ mua khi bị bắt buộc, chứ chưa coi đó là đầu tư để bảo vệ sinh kế. Trong khi ở các nước thường xuyên chịu thiên tai như Nhật Bản hay Philippines, bảo hiểm rủi ro thiên tai đã trở thành thói quen phòng thân của cả nông hộ lẫn doanh nghiệp nhỏ.
Ở góc độ thực thi, ngành bảo hiểm đã có những động thái đầu tiên: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cùng doanh nghiệp cử cán bộ xuống hiện trường, tạm ứng bồi thường, tháo gỡ hồ sơ để chi trả nhanh - giúp nhiều hộ dân có ngay nguồn thanh khoản sửa nhà, mua giống, khôi phục sản xuất, thay vì phải vay nặng lãi hoặc bán tài sản. Ông Nguyễn Xuân Việt, Chủ tịch Hiệp hội khẳng định: “Hiệp hội sẽ luôn đồng hành cùng người dân và doanh nghiệp, thúc đẩy cơ chế chi trả, hỗ trợ xử lý quyền lợi nhanh chóng, minh bạch”.
Tuy nhiên, như chuyên gia bảo hiểm Trần Nguyên Đán cảnh báo, sản phẩm và cơ chế hiện nay vẫn chưa đủ: mức phí bảo hiểm nông nghiệp còn cao so với năng lực hộ nhỏ; phạm vi bảo vệ hẹp; quy trình chi trả còn chậm. Ông đề xuất cần trợ giá phí bảo hiểm, thiết kế sản phẩm đơn giản, dễ hiểu và áp dụng cơ chế chi trả dựa trên chỉ số (index-based) để người dân thật sự tiếp cận và nhận tiền kịp lúc.
Các cơ quan quản lý cũng đang vào cuộc. Từ Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp đến chính sách hỗ trợ phí cho nhóm dễ tổn thương, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và môi trường đang mở rộng đối tượng tham gia, song song với thúc đẩy mô hình liên kết “bảo hiểm - tín dụng - khuyến nông” để người dân vừa có vốn, vừa được bảo vệ rủi ro.
Thực tế cho thấy, nếu muốn bảo hiểm thật sự “cứu sinh kế” sau bão lũ, cần đồng thời thực hiện bốn việc then chốt: thiết kế sản phẩm đơn giản, phù hợp từng vùng rủi ro; có chính sách trợ giá cho hộ nghèo và cận nghèo; bảo đảm cơ chế chi trả nhanh, minh bạch; và đầu tư hệ thống dữ liệu cảnh báo, đánh giá rủi ro để việc bồi thường được chính xác, kịp thời.
Khi những điều kiện đó được đáp ứng, bảo hiểm sẽ không chỉ là khoản tiền bồi thường, mà trở thành chiếc cầu nối giúp người dân sớm quay lại đồng ruộng, khôi phục chuỗi sản xuất - và quan trọng hơn, là giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước sau mỗi mùa thiên tai.