Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh (áo vàng), Trưởng Ban Hệ thống Tài khoản Quốc gia, Cục Thống kê, Bộ Tài chính trả lời tại họp báo. (Ảnh: HNV)
Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh (áo vàng), Trưởng Ban Hệ thống Tài khoản Quốc gia, Cục Thống kê, Bộ Tài chính trả lời tại họp báo. (Ảnh: HNV)

9 tháng qua, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định

Trong quý 3 và 9 tháng năm 2025, kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát đang được kiểm soát tốt, lãi suất duy trì ở mức thấp, tín dụng tăng trưởng hợp lý nhờ sự vào cuộc quyết liệt từ các cấp, các ngành, triển khai đồng bộ, sát sao các giải pháp cho từng lĩnh vực.

Trả lời báo chí tại họp báo ngày 6/10, bà Nguyễn Thị Mai Hạnh, Trưởng Ban Hệ thống Tài khoản Quốc gia, Cục Thống kê, Bộ Tài chính thông tin, tăng trưởng GDP quý 3/2025 đạt 8,23% cho thấy sự bứt tốc rõ rệt, là một trong hai quý tăng cao nhất kể từ sau Covid-19, chỉ thấp hơn mức tăng trưởng 14,38% của quý 3/2022. Tính chung 9 tháng, tăng trưởng GDP đạt 7,85%.

Cụ thể, theo bà Mai Hạnh, tăng trưởng kinh tế 9 tháng là mức tăng cao thứ hai kể từ năm 2011 tới nay (thấp hơn mức tăng vượt trội 9,44% năm 2022 phục hồi sau dịch bệnh covid); các chỉ số nhìn từ phía cung và phía cầu đều khá tích cực.

Kinh tế ghi nhận những diễn biến khá tích cực

Nhìn từ phía cung, các ngành kinh tế ghi nhận những diễn biến khá tích cực trong quý 3 và 9 tháng. Sản xuất nông nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn bất lợi do ảnh hưởng của mưa bão, dịch bệnh lợn tả châu Phi làm giảm diện tích và sản lượng cây hằng năm, giảm đàn lợn nhưng bù lại cây lâu năm tăng diện tích và sản lượng, chăn nuôi gia cầm, nuôi trồng thủy sản phát triển tích cực hơn so với cùng kỳ năm trước.

Sản xuất công nghiệp tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh kinh tế, ngành công nghiệp chế biến chế tạo mặc dù có xu hướng giảm nhưng khu vực công nghiệp vẫn tiếp tục giữ vững vai trò trụ cột, dẫn dắt tăng trưởng. Ngành Khai khoáng tăng trưởng tốt sau 2 năm liên tiếp tăng trưởng âm đã hỗ trợ cho khu vực công nghiệp. Hoạt động xây dựng tăng trưởng khá nhờ đẩy mạnh đầu tư công, đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Khu vực dịch vụ phát triển ổn định, các hoạt động kỷ niệm 80 ngày quốc khánh đất nước cùng với việc thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển đã tác động đến tăng trưởng các ngành dịch vụ liên quan, đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung toàn nền kinh tế.

Ngoài ra, chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục được duy trì hỗ trợ, giúp doanh nghiệp và người dân củng cố niềm tin. Ngân hàng Nhà nước giữ ổn định mặt bằng lãi suất thấp, qua đó giảm gánh nặng chi phí vốn cho doanh nghiệp.

ndo_br_tangtruong.jpg
Một cơ sở sản xuất chế biến thịt gia cầm tại Gia Lâm, Hà Nội. (Ảnh: HNV)

Bà Mai Hạnh cho biết, nhìn từ phía cầu, tiêu dùng cuối cùng, đầu tư và xuất khẩu là ba trụ cột quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quý 3 và 9 tháng năm 2025.

Đáng chú ý, tiêu dùng nội địa phục hồi đáng kể trong quý 3, thể hiện ở tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng khá khoảng 9,5%, loại trừ yếu tố giá là 7,2% (cùng kỳ 2024 tăng 5,8%), du lịch phục hồi, khách quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 15,4 triệu lượt khách, tăng 21,5% so với cùng kỳ 2024. Việc duy trì chính sách giảm 2% thuế VAT từ 10% xuống 8%, kích thích tiêu dùng nội địa, lan tỏa tới sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nước.

Đầu tư tiếp tục tăng trưởng khá nhờ đầu tư công được thúc đẩy quyết liệt, FDI duy trì đà tăng trưởng tích cực. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội 9 tháng đầu năm 2025 tăng 11,6 % so với cùng kỳ 2024, cao hơn nhiều mức tăng 6,8% cùng kỳ 9 tháng 2024; vốn FDI thực hiện tăng 11,2% (cùng kỳ 2024 tăng 10,7%).

Sự phục hồi của chuỗi cung ứng toàn cầu cùng với nỗ lực đa dạng hóa thị trường và sản phẩm đã tạo điều kiện cho xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục có mức tăng trưởng khá, là động lực chính của tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng trưởng ấn tượng (khoảng 16%), xuất siêu lớn (khoảng 16,8 tỷ USD).

ndo_br_qchopbao.jpg
Quang cảnh họp báo. (Ảnh: HNV)

Khơi dậy hiệu quả các động lực tăng trưởng GDP

Phân tích thêm về động lực tăng trưởng GDP, bà Mai Hạnh nhận định, ngoài các động lực truyền thống, các động lực mới được khai thác và đẩy mạnh. Bên cạnh những trụ cột truyền thống, nền kinh tế Việt Nam đang khai thác mạnh mẽ những động lực tăng trưởng mới.

Thứ nhất là kinh tế số và đổi mới sáng tạo. Quá trình chuyển đổi số diễn ra sôi động trong nhiều lĩnh vực, từ thương mại điện tử, tài chính-ngân hàng đến logistics và quản lý nhà nước. Hoạt động thương mại điện tử bán lẻ năm 2025 cũng khá sôi động nhờ ứng dụng công nghệ số như AI, Fintech, Edtech cho thấy tiềm năng hình thành những ngành nghề và không gian tăng trưởng mới.

Thứ hai là kinh tế xanh và năng lượng tái tạo. Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu mở ra cơ hội thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao vào Việt Nam. Trong 9 tháng năm 2025, trong tổng vốn FDI đăng ký mới, có nhiều dự án quy mô lớn trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo và công nghệ cao. Đây là những bước đi quan trọng giúp nền kinh tế tiến tới mô hình tăng trưởng xanh, ít phát thải carbon, phù hợp với cam kết phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050.

Thứ ba là cải cách thể chế và môi trường kinh doanh. Nhiều văn bản pháp lý mới được ban hành và triển khai, tạo hành lang pháp lý rõ ràng hơn cho thị trường bất động sản và hoạt động đầu tư, nâng cao tính minh bạch, giảm rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp, qua đó thu hút thêm dòng vốn tư nhân và FDI. Việc cải thiện môi trường kinh doanh cũng giúp Việt Nam nâng cao vị thế trên các bảng xếp hạng quốc tế, tạo niềm tin lâu dài cho nhà đầu tư.

Nền kinh tế Việt Nam năm 2025 đang được dẫn dắt đồng thời bởi cả động lực truyền thống (xuất khẩu, đầu tư công, chính sách tài khóa-tiền tệ) và động lực mới (kinh tế số, kinh tế xanh, cải cách thể chế). Sự kết hợp này không chỉ giúp tăng trưởng duy trì tốc độ cao mà còn tạo nền tảng cho phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn tới.

Tháo gỡ các điểm nghẽn trong quý 4/2025

Trả lời câu hỏi của Báo Nhân Dân tại họp báo, chia sẻ các giải pháp để duy trì đà tăng trưởng và đạt mục tiêu tăng trưởng trên 8% năm 2025, đại diện Ban Hệ thống Tài khoản Quốc gia cho rằng, cần tập trung tháo gỡ 3 nhóm điểm nghẽn chính bao gồm:

Thứ nhất, thực thi chính sách và thể chế: Đầu tư công mặc dù giải ngân tốt, vẫn còn vướng mắc về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng và năng lực quản lý của một số địa phương còn hạn chế làm chậm tiến độ tổng thể. Cần quyết liệt tháo gỡ mọi nút thắt về thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng và nâng cao năng lực quản lý để đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm của đất nước. Bảo đảm giải ngân tối đa hướng tới mục tiêu giải ngân 100% vốn đầu tư công mà Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu.

Thứ hai, thị trường và vốn: Nhu cầu thanh toán đơn hàng xuất khẩu cuối năm và diễn biến chính sách tiền tệ quốc tế có thể gây áp lực lên tỷ giá, ảnh hưởng đến chi phí nhập khẩu và nợ ngoại tệ của doanh nghiệp. Do vậy, cần linh hoạt sử dụng các công cụ tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá, đồng thời kiểm soát lạm phát ở mức mục tiêu.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực nhỏ và vừa, vẫn gặp khó trong tiếp cận vốn trung và dài hạn, trong khi quy mô thị trường nội địa chưa thật sự lớn. Giải pháp là phát triển thị trường vốn minh bạch, đa dạng hóa các kênh huy động vốn. Cùng với đó, cần có cơ chế hỗ trợ thiết thực cho doanh nghiệp, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu, tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do để mở rộng không gian tăng trưởng.

Sức khỏe thị trường bất động sản và trái phiếu mặc dù có dấu hiệu phục hồi, rủi ro nợ xấu hệ thống vẫn tiềm ẩn cần tiếp tục xử lý nợ xấu theo ngành, phát triển thị trường mua bán nợ. Cung cấp tín dụng có trọng tâm vào nhà ở xã hội và các dự án khả thi.

ndo_br_tangtruoggdp.jpg
Một gian hàng công nghệ cao của Đức tại triển lãm trong khuôn khổ Ngày hội Đổi mới Sáng tạo Quốc gia 2025 diễn ra từ 1-3/10 vừa qua. (Ảnh: HNV)

Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực và cạnh tranh: Chi phí logistics cao, chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Cần tập trung đầu tư đồng bộ vào hệ thống hạ tầng giao thông kết nối (cảng biển, đường bộ, đường sắt) và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong logistics.

Năng suất lao động của nước ta còn thấp, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng đủ, trong khi đào tạo chưa sát với nhu cầu thị trường. Vì vậy, cần gắn đào tạo nghề với nhu cầu doanh nghiệp, chú trọng kỹ năng số và kỹ năng mềm. Song song, cần thúc đẩy mạnh mẽ việc thu hút và giải ngân vốn FDI chất lượng cao vào công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, có ưu đãi cho hoạt động R&D, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, và hỗ trợ doanh nghiệp trong nước nâng cao quản trị, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bà Nguyễn Thị Mai Hạnh lưu ý một số nguy cơ tiềm ẩn, mang tính dài hạn: Hạ tầng và logistics vẫn chưa đồng bộ, gây ra chi phí cao cho sản xuất và lưu thông hàng hóa. Đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số còn chậm, doanh nghiệp ít đầu tư cho nghiên cứu-phát triển, nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua công nghệ. Môi trường và phát triển bền vững trở thành thách thức ngày càng lớn, khi biến đổi khí hậu, yêu cầu năng lượng xanh và tiêu chuẩn ESG đang tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh.

Xem thêm