Ba thách thức lớn của nền kinh tế
Trong những năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận trong chuyển đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Nhờ vậy, kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ đi cùng những chuyển động quan trọng.
Về cơ cấu, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 50% GDP và gần 23% thu ngân sách. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể từ chỗ độc tôn trong nền kinh tế đã lùi lại, chỉ còn giữ ở những lĩnh vực trọng yếu có tính then chốt và dịch vụ công ích, chiếm tỷ trọng khoảng 21% GDP và hơn 12% thu trong nước.
Nhờ có công cuộc Đổi mới nên một khu vực kinh tế mới là khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã hình thành trong nền kinh tế nước ta, chiếm tới hơn 20% GDP và đóng góp 16% thu trong nước, đặc biệt chiếm tới 73% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật, có thể thấy nền kinh tế nước ta vẫn còn một số vấn đề tồn tại như: có tới 96% doanh nghiệp ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ, trình độ khoa học công nghệ thấp, chủ yếu làm gia công với nguyên liệu nhập khẩu. Khi nhìn vào cơ cấu doanh nghiệp theo ngành kinh tế, chúng ta thấy hơn 2/3 tổng số doanh nghiệp của toàn nền kinh tế hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ mà trong khu vực này gần 50% lại hoạt động trong lĩnh vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô-tô, xe máy. Mặt khác, sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, giữa các doanh nghiệp với doanh nghiệp đầu tàu thuộc nhà nước hoặc doanh nghiệp FDI rất lỏng lẻo, khả năng doanh nghiệp thuần Việt tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu rất hạn chế.
Có thể nói, nền kinh tế nước ta hiện nay đang tồn tại ba vấn đề lớn: Thứ nhất, thiếu vốn do các doanh nghiệp quy mô chủ yếu là nhỏ nên khả năng tự tích lũy vốn thấp. Muốn phát triển doanh nghiệp chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn tín dụng nhưng bài toán lãi suất vay lại là một cản trở do mặt bằng lãi suất của Việt Nam tương đối cao so các nước trong khu vực đang cạnh tranh với doanh nghiệp Việt Nam trong cùng một ngành hàng.
Thứ hai, các doanh nghiệp không muốn mở rộng quy mô bởi hạn chế về trình độ quản trị doanh nghiệp, quan ngại các thủ tục thanh tra và kiểm tra chồng chéo, thiếu môi trường cạnh tranh công bằng.
Thứ ba, sự không thống nhất giữa mục tiêu và cách thức vận hành. Mục tiêu đặt ra trong thời gian tới là rất cao, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới đang chuyển mô hình từ kinh tế đa phương sang kinh tế song phương với lợi ích quốc gia được đặt lên hàng đầu nhưng các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa từ bỏ được quán tính, tư duy kế hoạch hóa tập trung, vẫn muốn can thiệp trực tiếp vào quá trình vận hành của nền kinh tế, làm cho quá trình vận hành của nền kinh tế bị méo mó, không phát huy được hiệu quả.
Và bộ ba giải pháp chiến lược
Trong giai đoạn 2026-2030 và định hướng đến năm 2045, để nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ hai con số với thời gian 20 năm và trở thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao, cần phải giải quyết được ba thách thức nói trên thông qua bộ ba giải pháp sau:
Một là, tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành hài hòa tốc độ tăng trưởng và lạm phát, từng bước đưa lãi suất cho vay ở trong nước tiệm cận dần với khu vực và thế giới. Muốn đạt được mục tiêu này, trước hết phải đổi mới tư duy, nhận thức về tái cơ cấu nền kinh tế. Cần thống nhất nhận thức rằng tái cơ cấu là một quá trình diễn ra liên tục để chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế trong nước phù hợp với những diễn biến mới nhất của kinh tế thế giới nhằm bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư của doanh nghiệp cũng như giữ được thị trường thương mại với những chuẩn mực cao hơn về xuất xứ hàng hóa và bảo vệ môi trường.
Nhìn lại lịch sử gần 40 năm Đổi mới của nước ta cho thấy, quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế được diễn ra liên tục từ năm 1987 đến nay: Giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển nông nghiệp và thay thế hàng nhập khẩu. Giai đoạn từ năm 1995, sau khi Mỹ bỏ cấm vận cơ cấu kinh tế nước ta lại một lần nữa chuyển đổi theo hướng hội nhập với kinh tế quốc tế, chú trọng tham gia vào chuỗi gia công của toàn cầu, tập trung phát triển thương mại với những thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ…
Sang đến những năm 2007 khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ cấu kinh tế nước ta lại chuyển dịch một lần nữa để phù hợp với các điều khoản mà Việt Nam đã cam kết với các tổ chức quốc tế nhưng vẫn kiên định và hoàn thiện mô hình kinh tế trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội.
Mô hình phát triển kinh tế mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển) được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã khẳng định xuyên suốt trong quá trình phát triển của đất nước. Tuy vậy, tùy từng thời kỳ cụ thể sẽ có những chuyển đổi, điều chỉnh linh hoạt để bảo đảm được đồng thời hai nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế và góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa mang đặc thù Việt Nam, góp phần cho kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững.
Hai là, doanh nghiệp Việt ít có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và xây dựng các sản phẩm có thương hiệu “Made in Vietnam”. Do đó, cần phải đổi mới nhận thức bằng việc Nhà nước chủ động xây dựng một số doanh nghiệp đầu tàu trong các lĩnh vực, không phân biệt thành phần sở hữu với các chính sách ưu đãi vượt trội trong một khoảng thời gian nhất định để làm động lực cho các doanh nghiệp Việt tham gia vào đầu tư công nghệ, máy móc để tham gia vào chuỗi sản xuất, xây dựng thương hiệu Việt.
Ba là, đổi mới tư duy lãnh đạo kinh tế đất nước theo hướng: xóa bỏ tư duy quản lý hành chính theo địa giới để thay bằng tư duy phát triển theo không gian kinh tế, cả nước là một không gian kinh tế phát triển; Chính phủ là nhạc trưởng xác định rõ các cực tăng trưởng quốc gia và có đầu tư thỏa đáng để phát huy hiệu quả, trong đó thúc đẩy công nghiệp công nghệ cao, có chính sách khuyến khích và gắn kết các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước.
Thời gian qua, chúng ta đã nới rộng không gian địa giới hành chính cấp tỉnh của đất nước và cũng có chủ trương ứng dụng đổi mới sáng tạo và công nghệ ở một số địa phương như hình thành Trung tâm tài chính tại Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Để hai trung tâm này hoạt động có hiệu quả, cần phải xác định đây là hai trung tâm của cả nước và các quy định pháp quy phải xóa bỏ các quy định rào cản theo địa giới hành chính.
Thêm nữa, tư duy quản lý phải phát triển phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. Trong kỷ nguyên vươn mình, nhiệm vụ của Việt Nam không phải chỉ là phát triển để thoát khỏi bẫy của thu nhập trung bình mà trở thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao. Con đường phát triển là chưa từng có ai đi qua nhưng dựa vào sức mạnh dân tộc, tận dụng cơ hội của thời đại, kiên trì mục tiêu đã định ra, Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên một tầm cao mới, trở thành một quốc gia có khả năng cạnh tranh và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Trong 20 năm tới, công tác tuyên truyền phải được đẩy mạnh để toàn xã hội nhận thức được doanh nghiệp chính là trung tâm đổi mới, tạo nên các cực tăng trưởng. Sự liên kết của cộng đồng này cũng là động lực phát triển bền vững.