Từ bỡ ngỡ, “gồng mình trên bàn đàm phán”…
---
Hơn 30 năm đã qua kể từ FTA đầu tiên Việt Nam ký với ASEAN, chúng ta đã có thêm nhiều cánh cửa rộng mở tiến vào các thị trường toàn cầu và đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn, có quan hệ thương mại trong khu vực mậu dịch tự do. Và Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất ký kết FTA với tất cả các đối tác kinh tế lớn trên toàn cầu như: Hoa Kỳ, Nhật Bản,Trung Quốc, Liên minh châu Âu (EU), Anh, Nga...
Năm 2010 là một dấu mốc đầy ý nghĩa khi Việt Nam quyết định khởi động tiến trình đàm phán các FTA thế hệ mới - một quyết sách chiến lược trong chính sách đối ngoại, một bước ngoặt trong tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta. Đặc biệt nhất, chính là việc công bố và khởi động những vòng đàm phán đầu tiên của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) - sau này là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) vào tháng 3/2010 hay Hiệp định Thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) vào 10/2010.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011), một lần nữa, Trung ương đã quyết định lựa chọn chiến lược: “ở trong nước thì đẩy mạnh đổi mới toàn diện; ở bên ngoài thì chuyển từ hội nhập kinh tế sang hội nhập quốc tế toàn diện với phương châm triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Đó cũng là lúc các nước, nhất là các quốc gia lớn, đẩy mạnh điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, khởi xướng và thúc đẩy hình thành các tập hợp lực lượng, các FTA thế hệ mới để mở rộng không gian phát triển, ứng phó với hệ lụy của khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu và đẩy tới các vấn đề kinh tế-thương mại mới.
Đánh giá rất cao quyết định chiến lược này, song vào thời điểm đó, khoảng năm 2015, theo nguyên Bộ trưởng Thương mại (nay là Bộ Công thương) Trương Đình Tuyển, cố vấn cao cấp cho đoàn Việt Nam đàm phán TPP và EVFTA, việc tham gia đàm phán với quá nhiều nguyên tắc, cách thức mới là thách thức không hề nhỏ đối với Việt Nam. Nhớ lại những bỡ ngỡ ban đầu khi phải chấp nhận nguyên tắc “chọn bỏ” - lĩnh vực nào không mở cửa được ghi cụ thể vào hiệp định, một nguyên tắc gây nhiều rủi ro cho các nước đang phát triển như Việt Nam, ông Tuyển cho biết, thời điểm đó, cái khó nhất đối với chúng ta là vì chưa biết tương lai xuất hiện ngành nghề, dịch vụ gì mới, cũng như chưa biết sẽ phải quản lý thế nào. Điều đó buộc chúng tôi luôn phải gồng lên trên bàn đàm phán.

Với vai trò Phó trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế-thương mại thời điểm đó, cố Đại sứ Nguyễn Thị Nguyệt Nga, nguyên Vụ trưởng Hợp tác kinh tế đa phương (Bộ Ngoại giao) từng chia sẻ, với các cán bộ ngoại giao tham gia đàm phán FTA thế hệ mới, đây là một chặng đường đầy ý nghĩa, vì có quá nhiều thách thức, nhiều điều để những cán bộ ngoại giao vốn chủ yếu xử lý các vấn đề chính trị-an ninh phải trăn trở, học hỏi, trưởng thành và cống hiến.
Những vấn đề lớn về chiến lược, hội nhập, lợi ích, thách thức và thời cơ… luôn được đặt ra trong suốt quá trình chuẩn bị, khởi động, đàm phán, ký kết và phê chuẩn các FTA thế hệ mới: Ta được gì trong đàm phán khi ở thế yếu hơn về trình độ phát triển, nguy cơ doanh nghiệp trong nước bị cạnh tranh ngay tại “sân nhà” luôn hiện diện? Thời cơ hay thách thức sẽ nhiều hơn? Thậm chí, ngay những lúc “nước sôi lửa bỏng” nhất, những vấn đề như liệu “FTA thế hệ mới có làm cho hội nhập nước ta đi quá nhanh không, trong khi trong nước chuẩn bị chưa đầy đủ?” vẫn khiến các thành viên trong đoàn đàm phán nặng lòng…
... Đến chủ động nâng tầm trong hội nhập quốc tế
---
Với nội hàm cao và quy mô rộng lớn của các FTA thế hệ mới, chiến lược của Việt Nam không thuần túy là vấn đề mở rộng thị trường xuất khẩu và tìm kiếm thị trường mới, mà trên hết là nhằm gắn kết chặt chẽ hơn Việt Nam với chuỗi cung ứng, sáng tạo của khu vực và toàn cầu, tạo dựng mạng lưới đan xen lợi ích dài hạn giữa nước ta với các trung tâm chính trị-kinh tế trên thế giới, qua đó hình thành không gian rộng lớn chưa từng có cho hòa bình, phát triển và nâng cao vị thế đất nước trong thời kỳ phát triển mới. Theo TS Cao Mạnh Cường (Bộ Kế hoạch và Đầu tư (cũ), nay là Bộ Tài chính), các FTA thế hệ mới giữa Việt Nam và các đối tác đã và đang trở thành trợ lực thúc đẩy quan hệ thương mại, đồng thời phản ánh rõ mối quan hệ kinh tế năng động song phương. Đơn cử với RCEP, mục tiêu chính của Hiệp định này là tạo thuận lợi về hàng hóa, do vậy, Việt Nam có thể đa dạng hóa nguồn nguyên liệu sản xuất đầu vào để thúc đẩy xuất khẩu.
Với dẫn chứng cụ thể về việc EVFTA góp phần đưa EU lên vị trí thứ 6 trong số các nhà đầu tư đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhiều nhất vào Việt Nam với khoảng 2.450 dự án, tổng số vốn đầu tư hơn 28 tỷ Euro, ông Dominik Meichle, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu (Eurocharm) tại Việt Nam đánh giá: EVFTA đã giúp Việt Nam vươn lên chiếm ưu thế trở thành một trong hai nước ASEAN duy nhất (cùng với Singapore) có FTA với EU. EVFTA đã và đang góp phần củng cố vị thế của Việt Nam như một điểm đến hấp dẫn cho đầu tư châu Âu, tạo “cú huých” hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ EU vào Việt Nam.

Hay như với CPTPP, trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam, ngày 26/3/2024, nhân dịp kỷ niệm 5 năm CPTPP có hiệu lực (năm 2019), bà Mary Ng, Bộ trưởng Phát triển kinh tế, Thương mại quốc tế và Xúc tiến xuất khẩu Canada đã chia sẻ, sau 5 năm thực thi, đến nay, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang khối thị trường này ghi nhận mức tăng trưởng rất tích cực, nhất là đối với các thị trường trọng điểm. Đặc biệt, kể từ khi CPTPP có hiệu lực, thương mại hai chiều Việt Nam - Canada đã tăng trưởng 170%.

Bàn về những bước hội nhập của nước ta trong những năm qua, bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Hội nhập, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, mấy năm trở lại đây là giai đoạn rất đặc biệt đối với thương mại thế giới. Đặc biệt cả ở nỗ lực, ở sự kiên định của Chính phủ Việt Nam cũng như các đối tác trong những bước đi tự do hóa đầy ấn tượng. Điều này đã mang lại động lực cho nền kinh tế Việt Nam ở cả góc độ thể chế, cơ cấu kinh tế lẫn các cơ hội thương mại - đầu tư và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đơn cử với EVFTA - FTA đầu tiên giữa Việt Nam với cùng lúc 27 nền kinh tế của EU, cơ hội kinh tế là yếu tố được nhấn mạnh hơn cả. Và lợi ích kinh tế khi Việt Nam thiết lập “tuyến cao tốc” tiến thẳng vào thị trường có sức mua lớn thứ hai toàn cầu, có cơ cấu kinh tế bổ sung với Việt Nam... có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt đối với một nền kinh tế định hướng xuất khẩu như nước ta.
Tất nhiên, vẫn có những điều chúng ta phải học dần dần, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để điều chỉnh cho đến khi thích hợp. Nhưng thực tế, những thay đổi về chính sách pháp luật Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc sửa đổi một vài điểm cụ thể, ở một vài chế định theo yêu cầu cam kết. Quan trọng hơn là tiếp tục cải thiện hệ thống pháp luật kinh doanh phù hợp hơn với các nguyên tắc thị trường, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh, thúc đẩy cạnh tranh công bằng ở bất kỳ khía cạnh nào có thể, cải cách thủ tục hành chính... Bởi với sự mở rộng phạm vi điều chỉnh của FTA thế hệ mới sang các vấn đề phi thương mại, khả năng các FTA này làm tiền đề cho việc xây dựng các quy tắc đa biên trong khuôn khổ WTO cũng thu hẹp dần.
Đến nay, như đánh giá của ông Trương Đình Tuyển, những nỗ lực hoàn tất các cam kết trong các FTA thế hệ mới đã có được kết quả đúng như Đại hội XI của Đảng xác định. Đó là việc “thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các FTA thế hệ mới” nâng hội nhập quốc tế của nước ta lên “tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước” và “triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do… ký kết và thực hiện hiệu quả các FTA thế hệ mới” trở thành một trong những trọng tâm của hội nhập quốc tế thời kỳ mới.